Thông tin truyện
Không Gia Đình Chương 14 : Cha, mẹ và danh dự Tác giả : Hector Malot Quốc gia : Pháp Thể loại : Văn học nước ngoài Số chương : 17 Người dịch : đang cập nhật
Đọc truyện
Serve 1
Cha tôi để cây nến lại cho chúng tôi nhưng đóng bên ngoài cửa xe lại. Chúng tôi chỉ còn có việc là đi ngủ, không chuyện trò gì cả như thói quen của chúng tôi vào mỗi buổi tối. Nhưng nến cháy hết rồi mà tôi vẫn không sao ngủ được. Tôi cứ liên tiếp trở mình trong cái giường hẹp. Tôi cũng nghe tiếng Mattia cựa quậy như thế ở trên đầu tôi. Giấc ngủ không đến. Giờ nọ nối tiếp giờ kia, tôi không biết đêm đã khuya đến đâu nữa. Bỗng nhiên tôi nghe có tiếng gõ cửa nhà để xe rất mạnh, cửa này mở ra một phố ngang nhỏ. Sau nhiều tiếng gõ cách quãng đều đặn, một ánh sáng tiến vào trong nhà để xe. Cha tôi mở cửa rất nhanh không tiếng động và đóng lại cũng như thế sau khi có hai người đàn ông vác những bọc rất nặng đi vào bên trong. Cha tôi để một ngón tay trên môi và dùng tay kia, lúc ấy đang cầm một cái đèn, chỉ cái xe trong đó chúng tôi đang nằm, có ý nói đừng gây tiếng động sợ làm chúng tôi thức giấc. Sự lưu tâm này làm tôi cảm động lắm. Cha tôi biến đi đâu một lúc rồi trở lại cùng với mẹ tôi. Trong lúc vắng cha tôi, hai người đàn ông đã mở các bọc ra, bọc thì đầy các xấp vải, bọc thì có nào mũ nào áo dệt kim, quần đùi, tất, găng. Hai người này chắc là hai tay buôn hàng. Cha tôi nhấc từng món hàng lên soi vào chiếc đèn đang cầm, rồi đưa cho mẹ tôi. Bà cầm kéo cắt đi những cái nhãn dán trên đó rồi cho các nhãn hàng vào túi áo. Tôi thấy lạ, ngay cả giờ bán hàng cũng lạ. Vừa xem vải vóc, cha tôi vừa nói gì đó khe khẽ với hai tay kia. Tôi chỉ hiểu được hai từ "bob" và "policemen" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Khi hàng hóa trong hai cái bọc đã được chia ra từng loại kỹ càng, hai người đàn ông rút khỏi nhà để xe đi vào trong nhà. Chung quanh chúng tôi lại tối mịt mù như cũ. Tôi cố hết sức tự thuyết phục mình những gì vừa trông thấy là hoàn toàn tự nhiên, nhưng không sao làm nổi. Những ý nghĩ đầy lo ngại làm tôi không yên. Vừa lúc đó, ánh đèn lại tràn ngập nhà để xe như lúc nãy. Lúc này chỉ còn lại cha mẹ tôi. Trong khi mẹ tôi nhanh chóng bọc tất cả những thứ người ta mang đến thành hai gói, cha tôi quét một góc nhà để xe. Ông lấy chổi quét rất mạnh lớp cát khô, lộ ra một cánh cửa sập. Nhấc cánh cửa đó lên, ông đưa hai cái gói xuống đó. Sau đó ông trèo lên, đóng cửa sập lại, lấy chổi phủ cát lên. Công việc đó làm xong thì không ai có thể nhìn thấy đâu là cửa sập nữa. Cả cha lẫn mẹ tôi lấy những mẩu rơm rạ rắc lên trên cát vì toàn bộ nền nhà để xe đều phủ đầy rơm. Họ đi ra. Lúc họ nhẹ nhàng khép cánh cửa vào nhà, tôi thấy hình như Mattia cựa quậy trong giường tựa như nó lại đặt đầu trên gối. Nó có nhìn thấy những gì vừa diễn ra không? Tôi không dám hỏi. Tôi sợ. Người tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh toát. Tôi cứ nằm như thế suốt đêm, tới gần sáng mới thiếp đi trong một giấc ngủ nặng nề và bồn chồn khắc khoải. Tiếng chốt cửa mở làm tôi thức giấc, cửa xe của chúng tôi mở ra. Tưởng đó là cha tôi, tôi nhắm mắt lại để khỏi nhìn thấy ông. - Em cậu đấy. Mattia bảo tôi. - Nó đi rồi. Chúng tôi dậy. Chẳng ai nói với ai lời nào. Tôi vào bếp nhưng không thấy cha mẹ tôi. Ông tôi vẫn ngồi trước ngọn lửa trong ghế bành tựa như suốt từ tối qua không hề chuyển dịch. Cô em gái lớn của tôi, Annie, đang lau bàn, trong khi cậu em lớn nhất của tôi, Alan, đang quét dưới đất. Tôi đi tới gần bắt tay họ nhưng họ vẫn cứ tiếp tục công việc của mình. Tới chỗ ông tôi thì lại bị ông nhổ về phía tôi như tối qua, tôi lập tức thôi ngay. Chúng tôi quyết định dạo chơi chung quanh một chút. Không dám đi xa lắm sợ lạc. Bethnal Green còn có vẻ ghê tởm hơn cả hôm qua trong đêm tối. Chỗ nào cũng thấy nghèo khổ ngự trị với tất cả những gì là đáng buồn nhất. Rồi chúng tôi quay trở về. Mẹ tôi ngồi đó, đầu tựa vào bàn. Tưởng bà ốm, tôi chạy lại hôn bà. Bà ngẩng đầu lên, cái đầu đung đưa, rồi bà nhìn tôi nhưng không trông thấy tôi. Ngửi thấy mùi rượu bách xù trong hơi thở của bà, tôi lùi lại. Bà lại gục đầu xuống giữa hai cánh tay duỗi dài trên bàn. - Rượu gin đấy. Ông tôi nói. Rồi ông nhìn tôi cười khẩy. Lúc đầu tôi đứng yên. Rồi mấy giây sau, tôi quay sang nhìn Mattia. Nó cũng nhìn tôi, nước mắt lưng tròng. Tôi ra hiệu cho nó và chúng tôi lại đi ra ngoài. Chúng tôi đi khá lâu, cứ thẳng trước mặt mà đi, không biết là đi về đâu. - Đến chỗ nào để ta có thể nói chuyện một chút đi. Mattia bảo tôi. Lúc đó, chúng tôi vừa tới một công viên mênh mông có cây có cỏ xanh. Ngồi xuống một cái, tôi òa khóc sà vào tay Mattia. Sau một cơn thổn thức tôi cố hết sức trấn tĩnh lại. - Mattia, đêm qua cậu có ngủ không? Có trông thấy... - Trông thấy tất. - Cậu có hiểu là thế nào không?. - Những tay bán hàng cho cha mẹ cậu không phải bán những hàng hóa mua về đâu. Cha cậu mắng họ sao không gõ cửa vào nhà mà lại gõ cửa nhà để xe. Họ bảo là họ bị các "bob" rình, tức là cảnh sát ấy. - Mattia, ta phải chia tay nhau thôi. - Không bao giờ! Ta cùng đi với nhau. - Không được! Cha mẹ tớ không là cái gì đối với cậu, nhưng đó là cha mẹ của tớ, tớ phải ở lại với họ. - Cha mẹ gì mà lại thế! Lão già liệt kia là ông cậu ấy ư? Người đàn bà say rượu kia là mẹ cậu ấy ư? - Mattia, đừng nói thế! Đó là cha mẹ của tớ, tớ phải tôn trọng, phải yêu họ. - Đúng vậy! Nhưng nếu như họ là cha mẹ thực của cậu cơ. Nhưng họ có phải cha mẹ thực của cậu không? Cậu không giống cha cũng chẳng giống mẹ. Tóc cậu đâu có vàng như tóc các anh chị cậu? Hơn nữa họ đâu có giàu để mà tiêu biết bao nhiêu tiền đi tìm con? Rémi ạ! Cậu không phải con nhà Driscoll. Cậu hãy viết thư cho má Barberin hỏi má về quần áo của cậu khi người ta tìm thấy cậu. Có thư má rồi, cậu sẽ hỏi cái người mà cậu gọi là cha ấy. Từ đây đến lúc đó, tớ sẽ ở với cậu. Chúng ta cùng làm việc với nhau. Cha tôi về. Ông không nhận xét gì về chuyến đi chơi khá lâu của chúng tôi cả. Mãi tới sau bữa cơm tối, ông mới bảo chúng tôi đến trước lò sưởi, việc này làm ông tôi càu nhàu, để có chuyện muốn nói với chúng tôi. - Cho cha biết các con làm gì để sống ở bên Pháp. Tôi kể ông nghe tất mọi chuyện. - Tốt lắm, cho cha xem các con có khả năng gì nào. Tôi cầm lấy cây đàn hác-pơ chơi một điệu nhạc, Mattia cũng làm như vậy với cây vĩ cầm và một trong những chiếc kèn đẩy của mình. Nó làm cho trẻ con vỗ tay ầm lên. Bọn chúng tụ tập thành vòng tròn quanh chúng tôi. - Còn Capi? Cha tôi hỏi. Tôi rất tự hào về tài năng của Capi, tôi muốn nó thực hiện mấy trò trong danh mục biểu diễn của nó, thế là nó thu được thắng lợi thường thấy bên bọn trẻ con. - Con chó này là cả một tài sản chứ chẳng chơi. Cha tôi bảo. Cha tôi dịch câu này sang tiếng Anh và hình như còn thêm vào đó vài chữ mà tôi chẳng hiểu gì cả nhưng làm cả nhà cười ồ lên. - Cha đề nghị với các con thế này nhé... Cha tôi tiếp tục nói... Nhưng mà trước hết phải hỏi xem Mattia có bằng lòng ở lại với chúng ta không đã. - Cháu muốn ở lại với Rémi, nó đi đâu cháu đi đấy. Mattia trả lời. Cha tôi không hiểu ý tứ ẩn dưới câu trả lời đó nên hài lòng lắm. - Tốt quá!... Ông nói... Cha trở lại với đề nghị của cha. Chúng ta không giàu, ai cũng phải làm việc để mà sống. Mùa hè, cả nhà đi khắp nước Anh, trẻ con phải đem hàng mời những người không muốn tới tận chỗ chúng ta mua. Nhưng mùa đông chẳng có việc làm gì mấy. Chừng nào ta còn ở Londres thì Rémi và Mattia có thể chơi nhạc trong các phố. Cha tin là chẳng mấy chốc sẽ có nhiều ngày kiếm khá đấy, nhất là sắp đến lễ Giáng sinh. Nhưng vì ở đời này không nên để lãng phí một cái gì cả, Capi sẽ đi biểu diễn cùng Alan và Ned. - Capi chỉ làm việc với con thì mới biểu diễn khá được. Tôi nói ngay. - Nó sẽ học làm việc với Alan và Ned. Remi này! Khi cha nói điều gì, cha muốn người ta thực hiện điều đó. Đó là quy luật của nhà này. Còn cãi sao được. Buồn thay! Chúng tôi sắp phải xa nhau. Chúng tôi về cái xe của chúng tôi, nhưng tối hôm đó cha tôi không khóa chúng tôi ở trong. Khi tôi đi ngủ, Mattia nói với tôi bằng giọng nghẹn ngào: - Cậu xem đấy! Cái người mà cậu gọi là cha ấy không những cần những đứa trẻ làm việc cho ông ta mà cần cả những con chó nữa. Cái đó chẳng làm cho cậu mở mắt ra hay sao? Mai ta sẽ viết thư cho má Barberin. Ngày hôm sau, phải lên lớp cho Capi, giải thích cho nó là nó phải làm việc với các em tôi. Tôi hôn nó trên mũi và nó đi với Alan và Ned, vẻ buồn rầu nhưng không chống đối. Còn Mattia và tôi thì cha tôi dẫn sang khu Tây, khu giàu có của Londres, ở đầu kia thành phố. Chúng tôi về nhà khá muộn vì từ khu Tây về đến Bethnal Green rất xa. Tôi mừng gặp lại Capi, lấm bùn be bét nhưng có vẻ vui lắm. Tôi.lấy rơm khô chải lông cho nó và cho nó ngủ trong giường tôi. Tôi và nó, ai sung sướng hơn? Khó mà nói được. Mọi việc cứ tiếp diễn như vậy trong nhiều ngày. Một buổi tối, cha tôi bảo tôi là hôm sau có thể mang Capi đi theo vì cha tôi cần giữ Alan và Ned ở nhà. Chúng tôi tới Holborn, một trong những phố buôn bán đông đúc nhất của Londres. Bỗng nhiên tôi thấy Capi không đi theo chúng tôi nữa. Nó ra sao rồi? Tôi dừng lại chờ nó và khe khẽ huýt sáo. Tôi đã bắt đầu thấy lo ngại sợ người ta ăn cắp mất nó chăng thì nó phóng tới miệng ngậm một đôi tất len, đuôi vẫy tít lên. Trông nó đầy tự hào, y như những lúc vừa diễn thành công những trò khó nhất. Tôi ngớ cả người thấy Mattia đột ngột kéo tôi vào một phố nhỏ. - Đi nhanh lên!... Nó bảo... Nhưng đừng có chạy. Chỉ rất nhiều phút sau nó mới dừng lại và giải thích: - Tớ nghe thấy một người đàn ông nói: "Kẻ cắp đâu?". Kẻ cắp, chính là Capi đấy. Nếu không có sương mù hẳn chúng ta đã bị tóm rồi. Tôi sửng sốt. Họ đã biến Capi thành một tên ăn cắp! - Về nhà đi. Tôi bảo Mattia. Mattia không nói gì. Chúng tôi vội vã về nhà. Cả nhà đang ngồi quanh bàn, bận gấp vải. Tôi ném đôi tất lên bàn, Alan và Ned cười to lên. - Đây là thứ Capi đã ăn cắp được, bởi vì người ta đã biến nó thành một tên ăn cắp. Tôi cho rằng nó chỉ đùa thôi. Tôi vừa nói vừa run tuy nhiên chưa bao giờ thấy mình kiên quyết đến như thế. - Thế ngộ nhỡ không phải chuyện đùa thì sao? Cha tôi hỏi. - Thì con sẽ buộc một cái dây vào cổ Capi và dù có yêu nó, con cũng sẽ dìm nó xuống sông Tamise. Con không muốn Capi trở thành một kẻ cắp, cũng như con đây, con cũng không muốn trở thành kẻ cắp. Nếu biết rằng rồi đây con cũng phải trở thành kẻ cắp thì con sẽ cùng với nó trẫm mình luôn. Cha tôi nhìn tôi, làm một cử chỉ giận dữ, đôi mắt nhìn tôi như thiêu như đốt, tuy nhiên tôi không hề cụp mắt xuống. Dần dần bộ mặt căng thẳng của ông dịu lại. - Con nói đúng khi nghĩ rằng đó chỉ là trò đùa... Ông nói... Từ nay, Capi chỉ đi theo con mà thôi. Sau chuyện này, quan hệ giữa gia đình tôi và tôi được hình thành rõ rệt như sau: tất cả mọi người đều muốn cà khịa với tôi chẳng úp mở gì, cha tôi chỉ quan tâm đến tôi vào buổi tối để hỏi tiền kiếm được; mẹ tôi thì thường xuyên trong tình trạng lơ mơ như không sống trên đời này. Nếu tôi quả là người của gia đình này thì tình cảm mọi người đối với tôi phải khác chứ. Chúng tôi chờ má Barberin trả lời qua hòm thư lưu. Cuối cùng, chúng tôi nhận được bức thư trả lời đầy mong đợi. Chúng tôi đi vào một con hẻm ở phố gần đó để đọc lá thư má Barberin nhờ ông mục sư ở Chavanon viết. Má Barberin bày tỏ với tôi tình cảm yêu thương, âu yếm, đồng thời cũng tỏ ra ngạc nhiên và thất vọng thấy cha mẹ tôi không phải là người giàu có. Cuối cùng, má mô tả quần áo tôi mặc trên người khi tới nhà má: một chiếc mũ bằng đăng-ten, một áo cánh bằng vải toan mịn đính đầy đăng-ten, tất dài bằng len trắng, giày trẻ con hàng dệt kim trắng có nơ lụa, một áo dài fla-nen trắng, cuối cùng là một áo khoác mặt trong là lông có mũ bằng ca-sơ-mia trắng lót lụa, trang trí với những hình thêu rất đẹp. Không áo quần nào được đánh dấu cả, nhưng chắc chắn là có dấu vì một số góc đã bị cắt đi chứng tỏ người ta rất cẩn thận làm lạc hướng mọi tìm kiếm. - Mô tả đầy đủ như thế thì ông Driscoll không thể nào được nhầm lẫn trong việc kể tên những thứ cậu mặc khi người ta ăn cắp cậu. - Ông có thể quên chứ. - Người ta có thể quên quần áo của đứa con người ta bị mất không? Chính là từ quần áo đó mới tìm lại được nó chứ? Không dễ dàng gì hỏi cha tôi khi người ta lấy cắp tôi, tôi mặc quần áo như thế nào. Cuối cùng, vào một hôm trời mưa giá rét, chúng tôi về sớm hơn mọi khi, tôi bèn hỏi ông. Tôi vừa hé lời hỏi, cha tôi bèn nhìn thẳng vào mặt tôi như dò hỏi nhưng tôi chịu đựng cái nhìn đó một cách can trường. Tôi tưởng ông sắp giận dữ, nhưng không. ông mỉm cười, trong nụ cười có cái gì đanh ác. - Điều tốt nhất đã giúp cha tìm lại được con..., ông nói,... chính là sự mô tả quần áo con mặc lúc con biến mất. Và ông mô tả lại hoàn toàn giống mô tả của má Barberin. Ông còn nói thêm: - Cha hy vọng nhiều vào hai chữ F.D đánh dấu trên quần áo con, tức là Francis Driscoll, tên thật của con, nhưng dấu này đã bị cô ăn cắp cắt đi mất. Cha cũng đã phải đưa ra giấy khai sinh của con mà cha giữ trong tủ này. Vừa nói thế, ông vừa lục tìm trong một cái ngăn kéo với vẻ thích thú khá bất thường ở ông. Ngay sau đó ông lấy ra một tờ giấy to đóng rất nhiều dấu, đưa cho tôi. Tôi cố gắng một lần cuối cùng: - Nếu cha cho phép, con sẽ nhờ Mattia dịch cho con. Từ lời dịch mà Mattia dịch tàm tạm, tôi được sinh ra vào ngày thứ năm mồng hai tháng tám, là con trai của Patrick Driscoll và Margareth Grange, vợ ông. Còn đòi hỏi gì hơn nữa? Tuy nhiên Mattia tỏ ra chưa thỏa mãn. Buổi tối, khi chúng tôi lui về chiếc xe của mình, nó tâm sự: - Tất cả những điều đó vẫn chưa giải thích được làm sao mà Patrick Driscoll và Margarreth Grange lại đủ giàu để ăn mặc cho con bộ cánh giàu có đến thế. Bọn bán hàng lưu động làm gì giàu đến như thế được. Tớ thì tớ tin cậu không phải là con của ông Driscoll, mà là đứa trẻ bị ông Driscoll ăn cắp. - Nếu tớ không phải con ông thì ông tìm tớ làm gì? Việc gì ông phải cho tiền Barberin, cho tiền hãng Greth và Galley? Tôi đập lại. Mattia không trả lời được. Ai dám bảo khi tôi khóc than không có gia đình là rồi đây tôi sẽ khóc vì tuyệt vọng vì có gia đình? Ấy thế mà tôi vẫn cứ phải hát, phải nhảy phải cười phải nhăn nhở, trong khi trái tim tôi buồn bã sâu sắc đến thế. Chủ nhật là những ngày tốt đẹp hơn cho tôi vì ngày hôm ấy không được chơi nhạc trong phố phường Londres, tôi có thể tự do mà buồn khổ trong khi đi dạo chơi cùng Mattia và Capi. Một ngày chủ nhật, khi tôi chuẩn bị đi ra ngoài với Mattia thì cha tôi giữ tôi ở lại nhà, lấy cớ là cần đến tôi, mặc cho Mattia đi chơi một mình. Ông tôi hôm ấy không xuống dưới nhà, mẹ tôi cùng các anh chị em tôi đi rong phố, ở nhà chỉ còn cha tôi và tôi. Khoảng một tiếng đồng hồ sau thì có người gõ cửa. Cha tôi ra mở cửa và đi vào cùng một người không giống những người bạn ông vẫn thường tiếp tí nào. Ông này đúng là một người ở nước Anh gọi là ông quý phái có nghĩa một ngài quý tộc thực sự, ăn mặc sang trọng, mặt mũi cao ngạo tuy có vẻ gì mệt mỏi trên nét mặt. Ông độ năm mươi tuổi. Điều gây ấn tượng nhất với tôi về ông chính là nụ cười, làm lộ ra những chiếc răng trắng và nhọn như răng chó con. Người ta tự hỏi điệu cười của ông gây ra cái mím môi hay là ông đang muốn cắn. Vừa nói chuyện với cha tôi bằng tiếng Anh, chốc chốc ông ta lại đưa mắt nhìn về phía tôi. Nhưng khi gặp mắt tôi, ông ta thôi không khảo sát nữa. Sau mấy phút chuyện trò như thế, ông bỏ tiếng Anh chuyển sang dùng tiếng Pháp. Ông ta nói tiếng Pháp dễ dàng như không gần như không có âm điệu ngoại quốc nào. - Đây là đứa trẻ mà ông nói chuyện với tôi chứ gì? Ông ta chỉ về phía tôi trong lúc nói với cha tôi. -Cháu có khỏe mạnh không nhỉ? Ông hỏi tôi. - Thưa ông có ạ. - Có bao giờ bị ốm không? - Cách đây ba năm, cháu có bị sưng phổi một lần khi phải nằm trên tuyết vào một ngày lạnh khủng khiếp. - Từ đó có bị bệnh này lần nào nữa không? - Không ạ. - Không bao giờ thấy mệt mỏi uể oải chứ? - Không bao giờ. Khi nào cháu đi nhiều thì cháu mệt, nhưng không vì thế mà ốm. Ông ta đứng lên đi lại gần tôi, sờ tay tôi, đặt tay lên tim tôi, cuối cùng áp tai vào lưng tôi, vào ngực tôi, bảo tôi thở mạnh, rồi ho lên. Ông ta tiếp tục nói chuyện với cha tôi bằng tiếng Anh rồi vài phút sau cả hai đi ra nhà để xe. Chuyện này nghĩa là thế nào nhỉ? Ông quý phái này muốn mượn tôi làm cho ông ta ư? Vậy thì tôi phải xa Mattia và Capi ư? Mà tôi thì quyết định không bao giờ làm đày tớ cho ai hết. Sau một lát, cha tôi trở vào. Ông không giải thích gì cả, chỉ nói là tôi được tự do đi chơi. Tôi không muốn đi chơi, nhưng ngồi làm gì trong căn nhà này? Trời mưa, tôi bèn vào xe lấy tấm da cừu. Tôi giật mình khi thấy Mattia trong đó. Tôi định nói với nó thì nó đặt bàn tay lên miệng thì thầm: - Ra mở cửa nhà để xe đi. Tớ sẽ nhẹ nhàng đi treo cậu. Không nên để ai biết tớ đã có mặt trong xe. Chỉ khi ra tới phố rồi Mattia mới nói: - Cậu có biết cái ông lúc nãy đứng với cha cậu là ai không? Nó nói. - Ông Miligan đấy, chú của Arthur bạn cậu mà cậu thường nói chuyện với tớ đấy. Tôi đứng lặng giữa phố. Mattia nắm lấy cánh tay tôi vừa đi vừa nói tiếp: - Tớ đi một mình trong mấy phố nhỏ chán quá nên về nhà nằm, nhưng không ngủ được. Cha cậu cùng một ông quý phái đi vào nhà để xe. Tớ nghe họ nói chuyện với nhau như sau: "Vững chãi như một tảng đá!... Ông quý phái nói... Ở địa vị nó thì mười thằng nhóc đã phải chết rồi. Thế mà nó thoát, chỉ bị sưng phổi!". Vì không biết có phải nói đến cậu không nên tớ chăm chú nghe. Lúc này cuộc nói chuyện đổi đề tài. "Thế thằng cháu ông thế nào rồi?". Cha cậu hỏi. "Khá hơn. Lần này nó lại thoát chết. Trước đây ba tháng thì bác sĩ nào cũng bảo là nó không thể chữa được. Mẹ nó lại cứu nó lần nữa. Ái chà! Cái bà Milligan này mới là một bà mẹ tốt chứ!". Cậu xem, tớ càng chú ý đến thế nào. "Này thế nếu thằng cháu ông khá lên như thế thì ông lo toan thận trọng như vậy vô ích à?". "Lúc này thì có lẽ thế thật đấy nhưng tôi không muốn chấp nhận Arthur sống được, bởi vì sống được là phải có phép thần mà phép thần ở đời này đâu còn. Ngày mà nó chết, tôi phải được bảo đảm không có sự trở về nào cả. Người thừa kế duy nhất chỉ là tôi, James Milligan mà thôi." "Ông cứ yên tâm... Cha cậu nói... Nếu chỉ cần có thế thì tôi xin bảo đảm chuyện này". "Tôi trông cậy ở ông đấy". Nói xong ông quý phái còn nói thêm gì nữa mà tớ không hiểu, tớ dịch sơ sơ như thế này: "Tới lúc ấy ta sẽ xem nên làm gì". Rồi ông ta đi ra. Arthur còn sống. Sức khỏe nó lại khá lên nữa chứ! Lúc này đây, tin vui này đủ làm tôi sung sướng.Hết
Chọn chương để xem
Serve 1
Cha tôi để cây nến lại cho chúng tôi nhưng đóng bên ngoài cửa xe lại.
Chúng tôi chỉ còn có việc là đi ngủ, không chuyện trò gì cả như thói quen của chúng tôi vào mỗi buổi tối.
Nhưng nến cháy hết rồi mà tôi vẫn không sao ngủ được. Tôi cứ liên tiếp trở mình trong cái giường hẹp. Tôi cũng nghe tiếng Mattia cựa quậy như thế ở trên đầu tôi.
Giấc ngủ không đến.
Giờ nọ nối tiếp giờ kia, tôi không biết đêm đã khuya đến đâu nữa.
Bỗng nhiên tôi nghe có tiếng gõ cửa nhà để xe rất mạnh, cửa này mở ra một phố ngang nhỏ.
Sau nhiều tiếng gõ cách quãng đều đặn, một ánh sáng tiến vào trong nhà để xe. Cha tôi mở cửa rất nhanh không tiếng động và đóng lại cũng như thế sau khi có hai người đàn ông vác những bọc rất nặng đi vào bên trong. Cha tôi để một ngón tay trên môi và dùng tay kia, lúc ấy đang cầm một cái đèn, chỉ cái xe trong đó chúng tôi đang nằm, có ý nói đừng gây tiếng động sợ làm chúng tôi thức giấc.
Sự lưu tâm này làm tôi cảm động lắm.
Cha tôi biến đi đâu một lúc rồi trở lại cùng với mẹ tôi.
Trong lúc vắng cha tôi, hai người đàn ông đã mở các bọc ra, bọc thì đầy các xấp vải, bọc thì có nào mũ nào áo dệt kim, quần đùi, tất, găng. Hai người này chắc là hai tay buôn hàng.
Cha tôi nhấc từng món hàng lên soi vào chiếc đèn đang cầm, rồi đưa cho mẹ tôi. Bà cầm kéo cắt đi những cái nhãn dán trên đó rồi cho các nhãn hàng vào túi áo.
Tôi thấy lạ, ngay cả giờ bán hàng cũng lạ.
Vừa xem vải vóc, cha tôi vừa nói gì đó khe khẽ với hai tay kia. Tôi chỉ hiểu được hai từ "bob" và "policemen" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Khi hàng hóa trong hai cái bọc đã được chia ra từng loại kỹ càng, hai người đàn ông rút khỏi nhà để xe đi vào trong nhà.
Chung quanh chúng tôi lại tối mịt mù như cũ.
Tôi cố hết sức tự thuyết phục mình những gì vừa trông thấy là hoàn toàn tự nhiên, nhưng không sao làm nổi. Những ý nghĩ đầy lo ngại làm tôi không yên.
Vừa lúc đó, ánh đèn lại tràn ngập nhà để xe như lúc nãy.
Lúc này chỉ còn lại cha mẹ tôi. Trong khi mẹ tôi nhanh chóng bọc tất cả những thứ người ta mang đến thành hai gói, cha tôi quét một góc nhà để xe. Ông lấy chổi quét rất mạnh lớp cát khô, lộ ra một cánh cửa sập. Nhấc cánh cửa đó lên, ông đưa hai cái gói xuống đó. Sau đó ông trèo lên, đóng cửa sập lại, lấy chổi phủ cát lên.
Công việc đó làm xong thì không ai có thể nhìn thấy đâu là cửa sập nữa. Cả cha lẫn mẹ tôi lấy những mẩu rơm rạ rắc lên trên cát vì toàn bộ nền nhà để xe đều phủ đầy rơm.
Họ đi ra.
Lúc họ nhẹ nhàng khép cánh cửa vào nhà, tôi thấy hình như Mattia cựa quậy trong giường tựa như nó lại đặt đầu trên gối.
Nó có nhìn thấy những gì vừa diễn ra không?
Tôi không dám hỏi.
Tôi sợ. Người tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh toát.
Tôi cứ nằm như thế suốt đêm, tới gần sáng mới thiếp đi trong một giấc ngủ nặng nề và bồn chồn khắc khoải.
Tiếng chốt cửa mở làm tôi thức giấc, cửa xe của chúng tôi mở ra. Tưởng đó là cha tôi, tôi nhắm mắt lại để khỏi nhìn thấy ông.
- Em cậu đấy. Mattia bảo tôi.
- Nó đi rồi.
Chúng tôi dậy. Chẳng ai nói với ai lời nào.
Tôi vào bếp nhưng không thấy cha mẹ tôi.
Ông tôi vẫn ngồi trước ngọn lửa trong ghế bành tựa như suốt từ tối qua không hề chuyển dịch. Cô em gái lớn của tôi, Annie, đang lau bàn, trong khi cậu em lớn nhất của tôi, Alan, đang quét dưới đất.
Tôi đi tới gần bắt tay họ nhưng họ vẫn cứ tiếp tục công việc của mình. Tới chỗ ông tôi thì lại bị ông nhổ về phía tôi như tối qua, tôi lập tức thôi ngay.
Chúng tôi quyết định dạo chơi chung quanh một chút. Không dám đi xa lắm sợ lạc. Bethnal Green còn có vẻ ghê tởm hơn cả hôm qua trong đêm tối. Chỗ nào cũng thấy nghèo khổ ngự trị với tất cả những gì là đáng buồn nhất.
Rồi chúng tôi quay trở về.
Mẹ tôi ngồi đó, đầu tựa vào bàn.
Tưởng bà ốm, tôi chạy lại hôn bà. Bà ngẩng đầu lên, cái đầu đung đưa, rồi bà nhìn tôi nhưng không trông thấy tôi. Ngửi thấy mùi rượu bách xù trong hơi thở của bà, tôi lùi lại. Bà lại gục đầu xuống giữa hai cánh tay duỗi dài trên bàn.
- Rượu gin đấy. Ông tôi nói.
Rồi ông nhìn tôi cười khẩy.
Lúc đầu tôi đứng yên. Rồi mấy giây sau, tôi quay sang nhìn Mattia. Nó cũng nhìn tôi, nước mắt lưng tròng.
Tôi ra hiệu cho nó và chúng tôi lại đi ra ngoài.
Chúng tôi đi khá lâu, cứ thẳng trước mặt mà đi, không biết là đi về đâu.
- Đến chỗ nào để ta có thể nói chuyện một chút đi. Mattia bảo tôi.
Lúc đó, chúng tôi vừa tới một công viên mênh mông có cây có cỏ xanh. Ngồi xuống một cái, tôi òa khóc sà vào tay Mattia.
Sau một cơn thổn thức tôi cố hết sức trấn tĩnh lại.
- Mattia, đêm qua cậu có ngủ không? Có trông thấy...
- Trông thấy tất.
- Cậu có hiểu là thế nào không?.
- Những tay bán hàng cho cha mẹ cậu không phải bán những hàng hóa mua về đâu. Cha cậu mắng họ sao không gõ cửa vào nhà mà lại gõ cửa nhà để xe. Họ bảo là họ bị các "bob" rình, tức là cảnh sát ấy.
- Mattia, ta phải chia tay nhau thôi.
- Không bao giờ! Ta cùng đi với nhau.
- Không được! Cha mẹ tớ không là cái gì đối với cậu, nhưng đó là cha mẹ của tớ, tớ phải ở lại với họ.
- Cha mẹ gì mà lại thế! Lão già liệt kia là ông cậu ấy ư? Người đàn bà say rượu kia là mẹ cậu ấy ư?
- Mattia, đừng nói thế! Đó là cha mẹ của tớ, tớ phải tôn trọng, phải yêu họ.
- Đúng vậy! Nhưng nếu như họ là cha mẹ thực của cậu cơ. Nhưng họ có phải cha mẹ thực của cậu không? Cậu không giống cha cũng chẳng giống mẹ. Tóc cậu đâu có vàng như tóc các anh chị cậu? Hơn nữa họ đâu có giàu để mà tiêu biết bao nhiêu tiền đi tìm con? Rémi ạ! Cậu không phải con nhà Driscoll. Cậu hãy viết thư cho má Barberin hỏi má về quần áo của cậu khi người ta tìm thấy cậu. Có thư má rồi, cậu sẽ hỏi cái người mà cậu gọi là cha ấy. Từ đây đến lúc đó, tớ sẽ ở với cậu. Chúng ta cùng làm việc với nhau.
Cha tôi về. Ông không nhận xét gì về chuyến đi chơi khá lâu của chúng tôi cả. Mãi tới sau bữa cơm tối, ông mới bảo chúng tôi đến trước lò sưởi, việc này làm ông tôi càu nhàu, để có chuyện muốn nói với chúng tôi.
- Cho cha biết các con làm gì để sống ở bên Pháp.
Tôi kể ông nghe tất mọi chuyện.
- Tốt lắm, cho cha xem các con có khả năng gì nào.
Tôi cầm lấy cây đàn hác-pơ chơi một điệu nhạc, Mattia cũng làm như vậy với cây vĩ cầm và một trong những chiếc kèn đẩy của mình. Nó làm cho trẻ con vỗ tay ầm lên. Bọn chúng tụ tập thành vòng tròn quanh chúng tôi.
- Còn Capi? Cha tôi hỏi.
Tôi rất tự hào về tài năng của Capi, tôi muốn nó thực hiện mấy trò trong danh mục biểu diễn của nó, thế là nó thu được thắng lợi thường thấy bên bọn trẻ con.
- Con chó này là cả một tài sản chứ chẳng chơi. Cha tôi bảo.
Cha tôi dịch câu này sang tiếng Anh và hình như còn thêm vào đó vài chữ mà tôi chẳng hiểu gì cả nhưng làm cả nhà cười ồ lên.
- Cha đề nghị với các con thế này nhé... Cha tôi tiếp tục nói... Nhưng mà trước hết phải hỏi xem Mattia có bằng lòng ở lại với chúng ta không đã.
- Cháu muốn ở lại với Rémi, nó đi đâu cháu đi đấy. Mattia trả lời.
Cha tôi không hiểu ý tứ ẩn dưới câu trả lời đó nên hài lòng lắm.
- Tốt quá!... Ông nói... Cha trở lại với đề nghị của cha. Chúng ta không giàu, ai cũng phải làm việc để mà sống. Mùa hè, cả nhà đi khắp nước Anh, trẻ con phải đem hàng mời những người không muốn tới tận chỗ chúng ta mua.
Nhưng mùa đông chẳng có việc làm gì mấy.
Chừng nào ta còn ở Londres thì Rémi và Mattia có thể chơi nhạc trong các phố. Cha tin là chẳng mấy chốc sẽ có nhiều ngày kiếm khá đấy, nhất là sắp đến lễ Giáng sinh. Nhưng vì ở đời này không nên để lãng phí một cái gì cả, Capi sẽ đi biểu diễn cùng Alan và Ned.
- Capi chỉ làm việc với con thì mới biểu diễn khá được. Tôi nói ngay.
- Nó sẽ học làm việc với Alan và Ned. Remi này! Khi cha nói điều gì, cha muốn người ta thực hiện điều đó. Đó là quy luật của nhà này.
Còn cãi sao được.
Buồn thay! Chúng tôi sắp phải xa nhau.
Chúng tôi về cái xe của chúng tôi, nhưng tối hôm đó cha tôi không khóa chúng tôi ở trong. Khi tôi đi ngủ, Mattia nói với tôi bằng giọng nghẹn ngào:
- Cậu xem đấy! Cái người mà cậu gọi là cha ấy không những cần những đứa trẻ làm việc cho ông ta mà cần cả những con chó nữa. Cái đó chẳng làm cho cậu mở mắt ra hay sao? Mai ta sẽ viết thư cho má Barberin.
Ngày hôm sau, phải lên lớp cho Capi, giải thích cho nó là nó phải làm việc với các em tôi.
Tôi hôn nó trên mũi và nó đi với Alan và Ned, vẻ buồn rầu nhưng không chống đối.
Còn Mattia và tôi thì cha tôi dẫn sang khu Tây, khu giàu có của Londres, ở đầu kia thành phố.
Chúng tôi về nhà khá muộn vì từ khu Tây về đến Bethnal Green rất xa. Tôi mừng gặp lại Capi, lấm bùn be bét nhưng có vẻ vui lắm. Tôi.lấy rơm khô chải lông cho nó và cho nó ngủ trong giường tôi.
Tôi và nó, ai sung sướng hơn?
Khó mà nói được.
Mọi việc cứ tiếp diễn như vậy trong nhiều ngày.
Một buổi tối, cha tôi bảo tôi là hôm sau có thể mang Capi đi theo vì cha tôi cần giữ Alan và Ned ở nhà.
Chúng tôi tới Holborn, một trong những phố buôn bán đông đúc nhất của Londres. Bỗng nhiên tôi thấy Capi không đi theo chúng tôi nữa.
Nó ra sao rồi?
Tôi dừng lại chờ nó và khe khẽ huýt sáo. Tôi đã bắt đầu thấy lo ngại sợ người ta ăn cắp mất nó chăng thì nó phóng tới miệng ngậm một đôi tất len, đuôi vẫy tít lên. Trông nó đầy tự hào, y như những lúc vừa diễn thành công những trò khó nhất. Tôi ngớ cả người thấy Mattia đột ngột kéo tôi vào một phố nhỏ.
- Đi nhanh lên!... Nó bảo... Nhưng đừng có chạy.
Chỉ rất nhiều phút sau nó mới dừng lại và giải thích:
- Tớ nghe thấy một người đàn ông nói: "Kẻ cắp đâu?". Kẻ cắp, chính là Capi đấy. Nếu không có sương mù hẳn chúng ta đã bị tóm rồi.
Tôi sửng sốt. Họ đã biến Capi thành một tên ăn cắp!
- Về nhà đi. Tôi bảo Mattia.
Mattia không nói gì.
Chúng tôi vội vã về nhà.
Cả nhà đang ngồi quanh bàn, bận gấp vải. Tôi ném đôi tất lên bàn, Alan và Ned cười to lên.
- Đây là thứ Capi đã ăn cắp được, bởi vì người ta đã biến nó thành một tên ăn cắp. Tôi cho rằng nó chỉ đùa thôi.
Tôi vừa nói vừa run tuy nhiên chưa bao giờ thấy mình kiên quyết đến như thế.
- Thế ngộ nhỡ không phải chuyện đùa thì sao? Cha tôi hỏi.
- Thì con sẽ buộc một cái dây vào cổ Capi và dù có yêu nó, con cũng sẽ dìm nó xuống sông Tamise. Con không muốn Capi trở thành một kẻ cắp, cũng như con đây, con cũng không muốn trở thành kẻ cắp. Nếu biết rằng rồi đây con cũng phải trở thành kẻ cắp thì con sẽ cùng với nó trẫm mình luôn.
Cha tôi nhìn tôi, làm một cử chỉ giận dữ, đôi mắt nhìn tôi như thiêu như đốt, tuy nhiên tôi không hề cụp mắt xuống. Dần dần bộ mặt căng thẳng của ông dịu lại.
- Con nói đúng khi nghĩ rằng đó chỉ là trò đùa... Ông nói... Từ nay, Capi chỉ đi theo con mà thôi.
Sau chuyện này, quan hệ giữa gia đình tôi và tôi được hình thành rõ rệt như sau: tất cả mọi người đều muốn cà khịa với tôi chẳng úp mở gì, cha tôi chỉ quan tâm đến tôi vào buổi tối để hỏi tiền kiếm được; mẹ tôi thì thường xuyên trong tình trạng lơ mơ như không sống trên đời này.
Nếu tôi quả là người của gia đình này thì tình cảm mọi người đối với tôi phải khác chứ.
Chúng tôi chờ má Barberin trả lời qua hòm thư lưu. Cuối cùng, chúng tôi nhận được bức thư trả lời đầy mong đợi.
Chúng tôi đi vào một con hẻm ở phố gần đó để đọc lá thư má Barberin nhờ ông mục sư ở Chavanon viết.
Má Barberin bày tỏ với tôi tình cảm yêu thương, âu yếm, đồng thời cũng tỏ ra ngạc nhiên và thất vọng thấy cha mẹ tôi không phải là người giàu có. Cuối cùng, má mô tả quần áo tôi mặc trên người khi tới nhà má: một chiếc mũ bằng đăng-ten, một áo cánh bằng vải toan mịn đính đầy đăng-ten, tất dài bằng len trắng, giày trẻ con hàng dệt kim trắng có nơ lụa, một áo dài fla-nen trắng, cuối cùng là một áo khoác mặt trong là lông có mũ bằng ca-sơ-mia trắng lót lụa, trang trí với những hình thêu rất đẹp. Không áo quần nào được đánh dấu cả, nhưng chắc chắn là có dấu vì một số góc đã bị cắt đi chứng tỏ người ta rất cẩn thận làm lạc hướng mọi tìm kiếm.
- Mô tả đầy đủ như thế thì ông Driscoll không thể nào được nhầm lẫn trong việc kể tên những thứ cậu mặc khi người ta ăn cắp cậu.
- Ông có thể quên chứ.
- Người ta có thể quên quần áo của đứa con người ta bị mất không? Chính là từ quần áo đó mới tìm lại được nó chứ?
Không dễ dàng gì hỏi cha tôi khi người ta lấy cắp tôi, tôi mặc quần áo như thế nào.
Cuối cùng, vào một hôm trời mưa giá rét, chúng tôi về sớm hơn mọi khi, tôi bèn hỏi ông.
Tôi vừa hé lời hỏi, cha tôi bèn nhìn thẳng vào mặt tôi như dò hỏi nhưng tôi chịu đựng cái nhìn đó một cách can trường. Tôi tưởng ông sắp giận dữ, nhưng không. ông mỉm cười, trong nụ cười có cái gì đanh ác.
- Điều tốt nhất đã giúp cha tìm lại được con..., ông nói,... chính là sự mô tả quần áo con mặc lúc con biến mất.
Và ông mô tả lại hoàn toàn giống mô tả của má Barberin.
Ông còn nói thêm:
- Cha hy vọng nhiều vào hai chữ F.D đánh dấu trên quần áo con, tức là Francis Driscoll, tên thật của con, nhưng dấu này đã bị cô ăn cắp cắt đi mất. Cha cũng đã phải đưa ra giấy khai sinh của con mà cha giữ trong tủ này.
Vừa nói thế, ông vừa lục tìm trong một cái ngăn kéo với vẻ thích thú khá bất thường ở ông. Ngay sau đó ông lấy ra một tờ giấy to đóng rất nhiều dấu, đưa cho tôi.
Tôi cố gắng một lần cuối cùng:
- Nếu cha cho phép, con sẽ nhờ Mattia dịch cho con.
Từ lời dịch mà Mattia dịch tàm tạm, tôi được sinh ra vào ngày thứ năm mồng hai tháng tám, là con trai của Patrick Driscoll và Margareth Grange, vợ ông.
Còn đòi hỏi gì hơn nữa?
Tuy nhiên Mattia tỏ ra chưa thỏa mãn. Buổi tối, khi chúng tôi lui về chiếc xe của mình, nó tâm sự:
- Tất cả những điều đó vẫn chưa giải thích được làm sao mà Patrick Driscoll và Margarreth Grange lại đủ giàu để ăn mặc cho con bộ cánh giàu có đến thế. Bọn bán hàng lưu động làm gì giàu đến như thế được. Tớ thì tớ tin cậu không phải là con của ông Driscoll, mà là đứa trẻ bị ông Driscoll ăn cắp.
- Nếu tớ không phải con ông thì ông tìm tớ làm gì? Việc gì ông phải cho tiền Barberin, cho tiền hãng Greth và Galley? Tôi đập lại.
Mattia không trả lời được.
Ai dám bảo khi tôi khóc than không có gia đình là rồi đây tôi sẽ khóc vì tuyệt vọng vì có gia đình? Ấy thế mà tôi vẫn cứ phải hát, phải nhảy phải cười phải nhăn nhở, trong khi trái tim tôi buồn bã sâu sắc đến thế.
Chủ nhật là những ngày tốt đẹp hơn cho tôi vì ngày hôm ấy không được chơi nhạc trong phố phường Londres, tôi có thể tự do mà buồn khổ trong khi đi dạo chơi cùng Mattia và Capi.
Một ngày chủ nhật, khi tôi chuẩn bị đi ra ngoài với Mattia thì cha tôi giữ tôi ở lại nhà, lấy cớ là cần đến tôi, mặc cho Mattia đi chơi một mình.
Ông tôi hôm ấy không xuống dưới nhà, mẹ tôi cùng các anh chị em tôi đi rong phố, ở nhà chỉ còn cha tôi và tôi.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau thì có người gõ cửa. Cha tôi ra mở cửa và đi vào cùng một người không giống những người bạn ông vẫn thường tiếp tí nào. Ông này đúng là một người ở nước Anh gọi là ông quý phái có nghĩa một ngài quý tộc thực sự, ăn mặc sang trọng, mặt mũi cao ngạo tuy có vẻ gì mệt mỏi trên nét mặt. Ông độ năm mươi tuổi. Điều gây ấn tượng nhất với tôi về ông chính là nụ cười, làm lộ ra những chiếc răng trắng và nhọn như răng chó con. Người ta tự hỏi điệu cười của ông gây ra cái mím môi hay là ông đang muốn cắn.
Vừa nói chuyện với cha tôi bằng tiếng Anh, chốc chốc ông ta lại đưa mắt nhìn về phía tôi. Nhưng khi gặp mắt tôi, ông ta thôi không khảo sát nữa.
Sau mấy phút chuyện trò như thế, ông bỏ tiếng Anh chuyển sang dùng tiếng Pháp. Ông ta nói tiếng Pháp dễ dàng như không gần như không có âm điệu ngoại quốc nào.
- Đây là đứa trẻ mà ông nói chuyện với tôi chứ gì? Ông ta chỉ về phía tôi trong lúc nói với cha tôi.
-Cháu có khỏe mạnh không nhỉ? Ông hỏi tôi.
- Thưa ông có ạ.
- Có bao giờ bị ốm không?
- Cách đây ba năm, cháu có bị sưng phổi một lần khi phải nằm trên tuyết vào một ngày lạnh khủng khiếp.
- Từ đó có bị bệnh này lần nào nữa không?
- Không ạ.
- Không bao giờ thấy mệt mỏi uể oải chứ?
- Không bao giờ. Khi nào cháu đi nhiều thì cháu mệt, nhưng không vì thế mà ốm.
Ông ta đứng lên đi lại gần tôi, sờ tay tôi, đặt tay lên tim tôi, cuối cùng áp tai vào lưng tôi, vào ngực tôi, bảo tôi thở mạnh, rồi ho lên.
Ông ta tiếp tục nói chuyện với cha tôi bằng tiếng Anh rồi vài phút sau cả hai đi ra nhà để xe.
Chuyện này nghĩa là thế nào nhỉ? Ông quý phái này muốn mượn tôi làm cho ông ta ư? Vậy thì tôi phải xa Mattia và Capi ư? Mà tôi thì quyết định không bao giờ làm đày tớ cho ai hết.
Sau một lát, cha tôi trở vào. Ông không giải thích gì cả, chỉ nói là tôi được tự do đi chơi.
Tôi không muốn đi chơi, nhưng ngồi làm gì trong căn nhà này?
Trời mưa, tôi bèn vào xe lấy tấm da cừu. Tôi giật mình khi thấy Mattia trong đó. Tôi định nói với nó thì nó đặt bàn tay lên miệng thì thầm:
- Ra mở cửa nhà để xe đi. Tớ sẽ nhẹ nhàng đi treo cậu. Không nên để ai biết tớ đã có mặt trong xe.
Chỉ khi ra tới phố rồi Mattia mới nói:
- Cậu có biết cái ông lúc nãy đứng với cha cậu là ai không? Nó nói.
- Ông Miligan đấy, chú của Arthur bạn cậu mà cậu thường nói chuyện với tớ đấy.
Tôi đứng lặng giữa phố.
Mattia nắm lấy cánh tay tôi vừa đi vừa nói tiếp:
- Tớ đi một mình trong mấy phố nhỏ chán quá nên về nhà nằm, nhưng không ngủ được. Cha cậu cùng một ông quý phái đi vào nhà để xe.
Tớ nghe họ nói chuyện với nhau như sau: "Vững chãi như một tảng đá!... Ông quý phái nói... Ở địa vị nó thì mười thằng nhóc đã phải chết rồi. Thế mà nó thoát, chỉ bị sưng phổi!". Vì không biết có phải nói đến cậu không nên tớ chăm chú nghe.
Lúc này cuộc nói chuyện đổi đề tài. "Thế thằng cháu ông thế nào rồi?". Cha cậu hỏi. "Khá hơn.
Lần này nó lại thoát chết. Trước đây ba tháng thì bác sĩ nào cũng bảo là nó không thể chữa được. Mẹ nó lại cứu nó lần nữa. Ái chà! Cái bà Milligan này mới là một bà mẹ tốt chứ!". Cậu xem, tớ càng chú ý đến thế nào. "Này thế nếu thằng cháu ông khá lên như thế thì ông lo toan thận trọng như vậy vô ích à?". "Lúc này thì có lẽ thế thật đấy nhưng tôi không muốn chấp nhận Arthur sống được, bởi vì sống được là phải có phép thần mà phép thần ở đời này đâu còn. Ngày mà nó chết, tôi phải được bảo đảm không có sự trở về nào cả. Người thừa kế duy nhất chỉ là tôi, James Milligan mà thôi." "Ông cứ yên tâm... Cha cậu nói... Nếu chỉ cần có thế thì tôi xin bảo đảm chuyện này". "Tôi trông cậy ở ông đấy". Nói xong ông quý phái còn nói thêm gì nữa mà tớ không hiểu, tớ dịch sơ sơ như thế này: "Tới lúc ấy ta sẽ xem nên làm gì". Rồi ông ta đi ra.
Arthur còn sống. Sức khỏe nó lại khá lên nữa chứ!
Lúc này đây, tin vui này đủ làm tôi sung sướng.
Chúng tôi chỉ còn có việc là đi ngủ, không chuyện trò gì cả như thói quen của chúng tôi vào mỗi buổi tối.
Nhưng nến cháy hết rồi mà tôi vẫn không sao ngủ được. Tôi cứ liên tiếp trở mình trong cái giường hẹp. Tôi cũng nghe tiếng Mattia cựa quậy như thế ở trên đầu tôi.
Giấc ngủ không đến.
Giờ nọ nối tiếp giờ kia, tôi không biết đêm đã khuya đến đâu nữa.
Bỗng nhiên tôi nghe có tiếng gõ cửa nhà để xe rất mạnh, cửa này mở ra một phố ngang nhỏ.
Sau nhiều tiếng gõ cách quãng đều đặn, một ánh sáng tiến vào trong nhà để xe. Cha tôi mở cửa rất nhanh không tiếng động và đóng lại cũng như thế sau khi có hai người đàn ông vác những bọc rất nặng đi vào bên trong. Cha tôi để một ngón tay trên môi và dùng tay kia, lúc ấy đang cầm một cái đèn, chỉ cái xe trong đó chúng tôi đang nằm, có ý nói đừng gây tiếng động sợ làm chúng tôi thức giấc.
Sự lưu tâm này làm tôi cảm động lắm.
Cha tôi biến đi đâu một lúc rồi trở lại cùng với mẹ tôi.
Trong lúc vắng cha tôi, hai người đàn ông đã mở các bọc ra, bọc thì đầy các xấp vải, bọc thì có nào mũ nào áo dệt kim, quần đùi, tất, găng. Hai người này chắc là hai tay buôn hàng.
Cha tôi nhấc từng món hàng lên soi vào chiếc đèn đang cầm, rồi đưa cho mẹ tôi. Bà cầm kéo cắt đi những cái nhãn dán trên đó rồi cho các nhãn hàng vào túi áo.
Tôi thấy lạ, ngay cả giờ bán hàng cũng lạ.
Vừa xem vải vóc, cha tôi vừa nói gì đó khe khẽ với hai tay kia. Tôi chỉ hiểu được hai từ "bob" và "policemen" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Khi hàng hóa trong hai cái bọc đã được chia ra từng loại kỹ càng, hai người đàn ông rút khỏi nhà để xe đi vào trong nhà.
Chung quanh chúng tôi lại tối mịt mù như cũ.
Tôi cố hết sức tự thuyết phục mình những gì vừa trông thấy là hoàn toàn tự nhiên, nhưng không sao làm nổi. Những ý nghĩ đầy lo ngại làm tôi không yên.
Vừa lúc đó, ánh đèn lại tràn ngập nhà để xe như lúc nãy.
Lúc này chỉ còn lại cha mẹ tôi. Trong khi mẹ tôi nhanh chóng bọc tất cả những thứ người ta mang đến thành hai gói, cha tôi quét một góc nhà để xe. Ông lấy chổi quét rất mạnh lớp cát khô, lộ ra một cánh cửa sập. Nhấc cánh cửa đó lên, ông đưa hai cái gói xuống đó. Sau đó ông trèo lên, đóng cửa sập lại, lấy chổi phủ cát lên.
Công việc đó làm xong thì không ai có thể nhìn thấy đâu là cửa sập nữa. Cả cha lẫn mẹ tôi lấy những mẩu rơm rạ rắc lên trên cát vì toàn bộ nền nhà để xe đều phủ đầy rơm.
Họ đi ra.
Lúc họ nhẹ nhàng khép cánh cửa vào nhà, tôi thấy hình như Mattia cựa quậy trong giường tựa như nó lại đặt đầu trên gối.
Nó có nhìn thấy những gì vừa diễn ra không?
Tôi không dám hỏi.
Tôi sợ. Người tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh toát.
Tôi cứ nằm như thế suốt đêm, tới gần sáng mới thiếp đi trong một giấc ngủ nặng nề và bồn chồn khắc khoải.
Tiếng chốt cửa mở làm tôi thức giấc, cửa xe của chúng tôi mở ra. Tưởng đó là cha tôi, tôi nhắm mắt lại để khỏi nhìn thấy ông.
- Em cậu đấy. Mattia bảo tôi.
- Nó đi rồi.
Chúng tôi dậy. Chẳng ai nói với ai lời nào.
Tôi vào bếp nhưng không thấy cha mẹ tôi.
Ông tôi vẫn ngồi trước ngọn lửa trong ghế bành tựa như suốt từ tối qua không hề chuyển dịch. Cô em gái lớn của tôi, Annie, đang lau bàn, trong khi cậu em lớn nhất của tôi, Alan, đang quét dưới đất.
Tôi đi tới gần bắt tay họ nhưng họ vẫn cứ tiếp tục công việc của mình. Tới chỗ ông tôi thì lại bị ông nhổ về phía tôi như tối qua, tôi lập tức thôi ngay.
Chúng tôi quyết định dạo chơi chung quanh một chút. Không dám đi xa lắm sợ lạc. Bethnal Green còn có vẻ ghê tởm hơn cả hôm qua trong đêm tối. Chỗ nào cũng thấy nghèo khổ ngự trị với tất cả những gì là đáng buồn nhất.
Rồi chúng tôi quay trở về.
Mẹ tôi ngồi đó, đầu tựa vào bàn.
Tưởng bà ốm, tôi chạy lại hôn bà. Bà ngẩng đầu lên, cái đầu đung đưa, rồi bà nhìn tôi nhưng không trông thấy tôi. Ngửi thấy mùi rượu bách xù trong hơi thở của bà, tôi lùi lại. Bà lại gục đầu xuống giữa hai cánh tay duỗi dài trên bàn.
- Rượu gin đấy. Ông tôi nói.
Rồi ông nhìn tôi cười khẩy.
Lúc đầu tôi đứng yên. Rồi mấy giây sau, tôi quay sang nhìn Mattia. Nó cũng nhìn tôi, nước mắt lưng tròng.
Tôi ra hiệu cho nó và chúng tôi lại đi ra ngoài.
Chúng tôi đi khá lâu, cứ thẳng trước mặt mà đi, không biết là đi về đâu.
- Đến chỗ nào để ta có thể nói chuyện một chút đi. Mattia bảo tôi.
Lúc đó, chúng tôi vừa tới một công viên mênh mông có cây có cỏ xanh. Ngồi xuống một cái, tôi òa khóc sà vào tay Mattia.
Sau một cơn thổn thức tôi cố hết sức trấn tĩnh lại.
- Mattia, đêm qua cậu có ngủ không? Có trông thấy...
- Trông thấy tất.
- Cậu có hiểu là thế nào không?.
- Những tay bán hàng cho cha mẹ cậu không phải bán những hàng hóa mua về đâu. Cha cậu mắng họ sao không gõ cửa vào nhà mà lại gõ cửa nhà để xe. Họ bảo là họ bị các "bob" rình, tức là cảnh sát ấy.
- Mattia, ta phải chia tay nhau thôi.
- Không bao giờ! Ta cùng đi với nhau.
- Không được! Cha mẹ tớ không là cái gì đối với cậu, nhưng đó là cha mẹ của tớ, tớ phải ở lại với họ.
- Cha mẹ gì mà lại thế! Lão già liệt kia là ông cậu ấy ư? Người đàn bà say rượu kia là mẹ cậu ấy ư?
- Mattia, đừng nói thế! Đó là cha mẹ của tớ, tớ phải tôn trọng, phải yêu họ.
- Đúng vậy! Nhưng nếu như họ là cha mẹ thực của cậu cơ. Nhưng họ có phải cha mẹ thực của cậu không? Cậu không giống cha cũng chẳng giống mẹ. Tóc cậu đâu có vàng như tóc các anh chị cậu? Hơn nữa họ đâu có giàu để mà tiêu biết bao nhiêu tiền đi tìm con? Rémi ạ! Cậu không phải con nhà Driscoll. Cậu hãy viết thư cho má Barberin hỏi má về quần áo của cậu khi người ta tìm thấy cậu. Có thư má rồi, cậu sẽ hỏi cái người mà cậu gọi là cha ấy. Từ đây đến lúc đó, tớ sẽ ở với cậu. Chúng ta cùng làm việc với nhau.
Cha tôi về. Ông không nhận xét gì về chuyến đi chơi khá lâu của chúng tôi cả. Mãi tới sau bữa cơm tối, ông mới bảo chúng tôi đến trước lò sưởi, việc này làm ông tôi càu nhàu, để có chuyện muốn nói với chúng tôi.
- Cho cha biết các con làm gì để sống ở bên Pháp.
Tôi kể ông nghe tất mọi chuyện.
- Tốt lắm, cho cha xem các con có khả năng gì nào.
Tôi cầm lấy cây đàn hác-pơ chơi một điệu nhạc, Mattia cũng làm như vậy với cây vĩ cầm và một trong những chiếc kèn đẩy của mình. Nó làm cho trẻ con vỗ tay ầm lên. Bọn chúng tụ tập thành vòng tròn quanh chúng tôi.
- Còn Capi? Cha tôi hỏi.
Tôi rất tự hào về tài năng của Capi, tôi muốn nó thực hiện mấy trò trong danh mục biểu diễn của nó, thế là nó thu được thắng lợi thường thấy bên bọn trẻ con.
- Con chó này là cả một tài sản chứ chẳng chơi. Cha tôi bảo.
Cha tôi dịch câu này sang tiếng Anh và hình như còn thêm vào đó vài chữ mà tôi chẳng hiểu gì cả nhưng làm cả nhà cười ồ lên.
- Cha đề nghị với các con thế này nhé... Cha tôi tiếp tục nói... Nhưng mà trước hết phải hỏi xem Mattia có bằng lòng ở lại với chúng ta không đã.
- Cháu muốn ở lại với Rémi, nó đi đâu cháu đi đấy. Mattia trả lời.
Cha tôi không hiểu ý tứ ẩn dưới câu trả lời đó nên hài lòng lắm.
- Tốt quá!... Ông nói... Cha trở lại với đề nghị của cha. Chúng ta không giàu, ai cũng phải làm việc để mà sống. Mùa hè, cả nhà đi khắp nước Anh, trẻ con phải đem hàng mời những người không muốn tới tận chỗ chúng ta mua.
Nhưng mùa đông chẳng có việc làm gì mấy.
Chừng nào ta còn ở Londres thì Rémi và Mattia có thể chơi nhạc trong các phố. Cha tin là chẳng mấy chốc sẽ có nhiều ngày kiếm khá đấy, nhất là sắp đến lễ Giáng sinh. Nhưng vì ở đời này không nên để lãng phí một cái gì cả, Capi sẽ đi biểu diễn cùng Alan và Ned.
- Capi chỉ làm việc với con thì mới biểu diễn khá được. Tôi nói ngay.
- Nó sẽ học làm việc với Alan và Ned. Remi này! Khi cha nói điều gì, cha muốn người ta thực hiện điều đó. Đó là quy luật của nhà này.
Còn cãi sao được.
Buồn thay! Chúng tôi sắp phải xa nhau.
Chúng tôi về cái xe của chúng tôi, nhưng tối hôm đó cha tôi không khóa chúng tôi ở trong. Khi tôi đi ngủ, Mattia nói với tôi bằng giọng nghẹn ngào:
- Cậu xem đấy! Cái người mà cậu gọi là cha ấy không những cần những đứa trẻ làm việc cho ông ta mà cần cả những con chó nữa. Cái đó chẳng làm cho cậu mở mắt ra hay sao? Mai ta sẽ viết thư cho má Barberin.
Ngày hôm sau, phải lên lớp cho Capi, giải thích cho nó là nó phải làm việc với các em tôi.
Tôi hôn nó trên mũi và nó đi với Alan và Ned, vẻ buồn rầu nhưng không chống đối.
Còn Mattia và tôi thì cha tôi dẫn sang khu Tây, khu giàu có của Londres, ở đầu kia thành phố.
Chúng tôi về nhà khá muộn vì từ khu Tây về đến Bethnal Green rất xa. Tôi mừng gặp lại Capi, lấm bùn be bét nhưng có vẻ vui lắm. Tôi.lấy rơm khô chải lông cho nó và cho nó ngủ trong giường tôi.
Tôi và nó, ai sung sướng hơn?
Khó mà nói được.
Mọi việc cứ tiếp diễn như vậy trong nhiều ngày.
Một buổi tối, cha tôi bảo tôi là hôm sau có thể mang Capi đi theo vì cha tôi cần giữ Alan và Ned ở nhà.
Chúng tôi tới Holborn, một trong những phố buôn bán đông đúc nhất của Londres. Bỗng nhiên tôi thấy Capi không đi theo chúng tôi nữa.
Nó ra sao rồi?
Tôi dừng lại chờ nó và khe khẽ huýt sáo. Tôi đã bắt đầu thấy lo ngại sợ người ta ăn cắp mất nó chăng thì nó phóng tới miệng ngậm một đôi tất len, đuôi vẫy tít lên. Trông nó đầy tự hào, y như những lúc vừa diễn thành công những trò khó nhất. Tôi ngớ cả người thấy Mattia đột ngột kéo tôi vào một phố nhỏ.
- Đi nhanh lên!... Nó bảo... Nhưng đừng có chạy.
Chỉ rất nhiều phút sau nó mới dừng lại và giải thích:
- Tớ nghe thấy một người đàn ông nói: "Kẻ cắp đâu?". Kẻ cắp, chính là Capi đấy. Nếu không có sương mù hẳn chúng ta đã bị tóm rồi.
Tôi sửng sốt. Họ đã biến Capi thành một tên ăn cắp!
- Về nhà đi. Tôi bảo Mattia.
Mattia không nói gì.
Chúng tôi vội vã về nhà.
Cả nhà đang ngồi quanh bàn, bận gấp vải. Tôi ném đôi tất lên bàn, Alan và Ned cười to lên.
- Đây là thứ Capi đã ăn cắp được, bởi vì người ta đã biến nó thành một tên ăn cắp. Tôi cho rằng nó chỉ đùa thôi.
Tôi vừa nói vừa run tuy nhiên chưa bao giờ thấy mình kiên quyết đến như thế.
- Thế ngộ nhỡ không phải chuyện đùa thì sao? Cha tôi hỏi.
- Thì con sẽ buộc một cái dây vào cổ Capi và dù có yêu nó, con cũng sẽ dìm nó xuống sông Tamise. Con không muốn Capi trở thành một kẻ cắp, cũng như con đây, con cũng không muốn trở thành kẻ cắp. Nếu biết rằng rồi đây con cũng phải trở thành kẻ cắp thì con sẽ cùng với nó trẫm mình luôn.
Cha tôi nhìn tôi, làm một cử chỉ giận dữ, đôi mắt nhìn tôi như thiêu như đốt, tuy nhiên tôi không hề cụp mắt xuống. Dần dần bộ mặt căng thẳng của ông dịu lại.
- Con nói đúng khi nghĩ rằng đó chỉ là trò đùa... Ông nói... Từ nay, Capi chỉ đi theo con mà thôi.
Sau chuyện này, quan hệ giữa gia đình tôi và tôi được hình thành rõ rệt như sau: tất cả mọi người đều muốn cà khịa với tôi chẳng úp mở gì, cha tôi chỉ quan tâm đến tôi vào buổi tối để hỏi tiền kiếm được; mẹ tôi thì thường xuyên trong tình trạng lơ mơ như không sống trên đời này.
Nếu tôi quả là người của gia đình này thì tình cảm mọi người đối với tôi phải khác chứ.
Chúng tôi chờ má Barberin trả lời qua hòm thư lưu. Cuối cùng, chúng tôi nhận được bức thư trả lời đầy mong đợi.
Chúng tôi đi vào một con hẻm ở phố gần đó để đọc lá thư má Barberin nhờ ông mục sư ở Chavanon viết.
Má Barberin bày tỏ với tôi tình cảm yêu thương, âu yếm, đồng thời cũng tỏ ra ngạc nhiên và thất vọng thấy cha mẹ tôi không phải là người giàu có. Cuối cùng, má mô tả quần áo tôi mặc trên người khi tới nhà má: một chiếc mũ bằng đăng-ten, một áo cánh bằng vải toan mịn đính đầy đăng-ten, tất dài bằng len trắng, giày trẻ con hàng dệt kim trắng có nơ lụa, một áo dài fla-nen trắng, cuối cùng là một áo khoác mặt trong là lông có mũ bằng ca-sơ-mia trắng lót lụa, trang trí với những hình thêu rất đẹp. Không áo quần nào được đánh dấu cả, nhưng chắc chắn là có dấu vì một số góc đã bị cắt đi chứng tỏ người ta rất cẩn thận làm lạc hướng mọi tìm kiếm.
- Mô tả đầy đủ như thế thì ông Driscoll không thể nào được nhầm lẫn trong việc kể tên những thứ cậu mặc khi người ta ăn cắp cậu.
- Ông có thể quên chứ.
- Người ta có thể quên quần áo của đứa con người ta bị mất không? Chính là từ quần áo đó mới tìm lại được nó chứ?
Không dễ dàng gì hỏi cha tôi khi người ta lấy cắp tôi, tôi mặc quần áo như thế nào.
Cuối cùng, vào một hôm trời mưa giá rét, chúng tôi về sớm hơn mọi khi, tôi bèn hỏi ông.
Tôi vừa hé lời hỏi, cha tôi bèn nhìn thẳng vào mặt tôi như dò hỏi nhưng tôi chịu đựng cái nhìn đó một cách can trường. Tôi tưởng ông sắp giận dữ, nhưng không. ông mỉm cười, trong nụ cười có cái gì đanh ác.
- Điều tốt nhất đã giúp cha tìm lại được con..., ông nói,... chính là sự mô tả quần áo con mặc lúc con biến mất.
Và ông mô tả lại hoàn toàn giống mô tả của má Barberin.
Ông còn nói thêm:
- Cha hy vọng nhiều vào hai chữ F.D đánh dấu trên quần áo con, tức là Francis Driscoll, tên thật của con, nhưng dấu này đã bị cô ăn cắp cắt đi mất. Cha cũng đã phải đưa ra giấy khai sinh của con mà cha giữ trong tủ này.
Vừa nói thế, ông vừa lục tìm trong một cái ngăn kéo với vẻ thích thú khá bất thường ở ông. Ngay sau đó ông lấy ra một tờ giấy to đóng rất nhiều dấu, đưa cho tôi.
Tôi cố gắng một lần cuối cùng:
- Nếu cha cho phép, con sẽ nhờ Mattia dịch cho con.
Từ lời dịch mà Mattia dịch tàm tạm, tôi được sinh ra vào ngày thứ năm mồng hai tháng tám, là con trai của Patrick Driscoll và Margareth Grange, vợ ông.
Còn đòi hỏi gì hơn nữa?
Tuy nhiên Mattia tỏ ra chưa thỏa mãn. Buổi tối, khi chúng tôi lui về chiếc xe của mình, nó tâm sự:
- Tất cả những điều đó vẫn chưa giải thích được làm sao mà Patrick Driscoll và Margarreth Grange lại đủ giàu để ăn mặc cho con bộ cánh giàu có đến thế. Bọn bán hàng lưu động làm gì giàu đến như thế được. Tớ thì tớ tin cậu không phải là con của ông Driscoll, mà là đứa trẻ bị ông Driscoll ăn cắp.
- Nếu tớ không phải con ông thì ông tìm tớ làm gì? Việc gì ông phải cho tiền Barberin, cho tiền hãng Greth và Galley? Tôi đập lại.
Mattia không trả lời được.
Ai dám bảo khi tôi khóc than không có gia đình là rồi đây tôi sẽ khóc vì tuyệt vọng vì có gia đình? Ấy thế mà tôi vẫn cứ phải hát, phải nhảy phải cười phải nhăn nhở, trong khi trái tim tôi buồn bã sâu sắc đến thế.
Chủ nhật là những ngày tốt đẹp hơn cho tôi vì ngày hôm ấy không được chơi nhạc trong phố phường Londres, tôi có thể tự do mà buồn khổ trong khi đi dạo chơi cùng Mattia và Capi.
Một ngày chủ nhật, khi tôi chuẩn bị đi ra ngoài với Mattia thì cha tôi giữ tôi ở lại nhà, lấy cớ là cần đến tôi, mặc cho Mattia đi chơi một mình.
Ông tôi hôm ấy không xuống dưới nhà, mẹ tôi cùng các anh chị em tôi đi rong phố, ở nhà chỉ còn cha tôi và tôi.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau thì có người gõ cửa. Cha tôi ra mở cửa và đi vào cùng một người không giống những người bạn ông vẫn thường tiếp tí nào. Ông này đúng là một người ở nước Anh gọi là ông quý phái có nghĩa một ngài quý tộc thực sự, ăn mặc sang trọng, mặt mũi cao ngạo tuy có vẻ gì mệt mỏi trên nét mặt. Ông độ năm mươi tuổi. Điều gây ấn tượng nhất với tôi về ông chính là nụ cười, làm lộ ra những chiếc răng trắng và nhọn như răng chó con. Người ta tự hỏi điệu cười của ông gây ra cái mím môi hay là ông đang muốn cắn.
Vừa nói chuyện với cha tôi bằng tiếng Anh, chốc chốc ông ta lại đưa mắt nhìn về phía tôi. Nhưng khi gặp mắt tôi, ông ta thôi không khảo sát nữa.
Sau mấy phút chuyện trò như thế, ông bỏ tiếng Anh chuyển sang dùng tiếng Pháp. Ông ta nói tiếng Pháp dễ dàng như không gần như không có âm điệu ngoại quốc nào.
- Đây là đứa trẻ mà ông nói chuyện với tôi chứ gì? Ông ta chỉ về phía tôi trong lúc nói với cha tôi.
-Cháu có khỏe mạnh không nhỉ? Ông hỏi tôi.
- Thưa ông có ạ.
- Có bao giờ bị ốm không?
- Cách đây ba năm, cháu có bị sưng phổi một lần khi phải nằm trên tuyết vào một ngày lạnh khủng khiếp.
- Từ đó có bị bệnh này lần nào nữa không?
- Không ạ.
- Không bao giờ thấy mệt mỏi uể oải chứ?
- Không bao giờ. Khi nào cháu đi nhiều thì cháu mệt, nhưng không vì thế mà ốm.
Ông ta đứng lên đi lại gần tôi, sờ tay tôi, đặt tay lên tim tôi, cuối cùng áp tai vào lưng tôi, vào ngực tôi, bảo tôi thở mạnh, rồi ho lên.
Ông ta tiếp tục nói chuyện với cha tôi bằng tiếng Anh rồi vài phút sau cả hai đi ra nhà để xe.
Chuyện này nghĩa là thế nào nhỉ? Ông quý phái này muốn mượn tôi làm cho ông ta ư? Vậy thì tôi phải xa Mattia và Capi ư? Mà tôi thì quyết định không bao giờ làm đày tớ cho ai hết.
Sau một lát, cha tôi trở vào. Ông không giải thích gì cả, chỉ nói là tôi được tự do đi chơi.
Tôi không muốn đi chơi, nhưng ngồi làm gì trong căn nhà này?
Trời mưa, tôi bèn vào xe lấy tấm da cừu. Tôi giật mình khi thấy Mattia trong đó. Tôi định nói với nó thì nó đặt bàn tay lên miệng thì thầm:
- Ra mở cửa nhà để xe đi. Tớ sẽ nhẹ nhàng đi treo cậu. Không nên để ai biết tớ đã có mặt trong xe.
Chỉ khi ra tới phố rồi Mattia mới nói:
- Cậu có biết cái ông lúc nãy đứng với cha cậu là ai không? Nó nói.
- Ông Miligan đấy, chú của Arthur bạn cậu mà cậu thường nói chuyện với tớ đấy.
Tôi đứng lặng giữa phố.
Mattia nắm lấy cánh tay tôi vừa đi vừa nói tiếp:
- Tớ đi một mình trong mấy phố nhỏ chán quá nên về nhà nằm, nhưng không ngủ được. Cha cậu cùng một ông quý phái đi vào nhà để xe.
Tớ nghe họ nói chuyện với nhau như sau: "Vững chãi như một tảng đá!... Ông quý phái nói... Ở địa vị nó thì mười thằng nhóc đã phải chết rồi. Thế mà nó thoát, chỉ bị sưng phổi!". Vì không biết có phải nói đến cậu không nên tớ chăm chú nghe.
Lúc này cuộc nói chuyện đổi đề tài. "Thế thằng cháu ông thế nào rồi?". Cha cậu hỏi. "Khá hơn.
Lần này nó lại thoát chết. Trước đây ba tháng thì bác sĩ nào cũng bảo là nó không thể chữa được. Mẹ nó lại cứu nó lần nữa. Ái chà! Cái bà Milligan này mới là một bà mẹ tốt chứ!". Cậu xem, tớ càng chú ý đến thế nào. "Này thế nếu thằng cháu ông khá lên như thế thì ông lo toan thận trọng như vậy vô ích à?". "Lúc này thì có lẽ thế thật đấy nhưng tôi không muốn chấp nhận Arthur sống được, bởi vì sống được là phải có phép thần mà phép thần ở đời này đâu còn. Ngày mà nó chết, tôi phải được bảo đảm không có sự trở về nào cả. Người thừa kế duy nhất chỉ là tôi, James Milligan mà thôi." "Ông cứ yên tâm... Cha cậu nói... Nếu chỉ cần có thế thì tôi xin bảo đảm chuyện này". "Tôi trông cậy ở ông đấy". Nói xong ông quý phái còn nói thêm gì nữa mà tớ không hiểu, tớ dịch sơ sơ như thế này: "Tới lúc ấy ta sẽ xem nên làm gì". Rồi ông ta đi ra.
Arthur còn sống. Sức khỏe nó lại khá lên nữa chứ!
Lúc này đây, tin vui này đủ làm tôi sung sướng.
Hết