Thông tin truyện
Không Gia Đình Chương 15 : Những đêm giáng sinh Tác giả : Hector Malot Quốc gia : Pháp Thể loại : Văn học nước ngoài Số chương : 17 Người dịch : đang cập nhật
Đọc truyện
Serve 1
Chúng tôi chỉ còn nói tới Arthur và bà Mil-ligan. Họ đang ở đâu? Chúng tôi biết tìm họ ở đâu? Chuyến viếng thăm của ông James Milligan làm chúng tôi nảy ra một ý nghĩ và đưa ra một kế hoạch mà kết quả xem ra là chắc chắn. Vì James Milligan đã đến nhà cha mẹ tôi một lần thế nào ông ta chẳng đến nữa? Chắc ông ta có làm ăn gì đó với cha tôi. Vậy thì khi nào ông ta ra về, Mattia sẽ đi theo; biết chỗ ở của ông ta rồi sẽ lân la hỏi chuyện bọn đầy tớ, từ những tin tức này có thể đến được chỗ Arthur. Đã đến lúc mà, đáng lẽ phải đi chơi đàn trong các phố vào ban ngày chúng tôi lại đi vào ban đêm bởi vì đúng vào nửa đêm mới là những buổi hòa nhạc Giáng sinh. Như vậy ban ngày ở nhà, một trong hai đứa chúng tôi sẽ canh gác, thế nào chẳng có lúc chộp được ông chú Arthur. Một hôm, trong khi đi dạo phố phường, tôi thấy một người giả da đen mặc quần áo lố lăng có đuôi chim làm hiệu cho Mattia. Lúc đầu tôi cứ tưởng một trò hề để làm vui công chúng mà chúng tôi là nạn nhân, nhưng thật ngạc nhiên Mattia thân mật đáp lại. - Cậu quen anh ta à? Tôi hỏi Mattia. - Đó là Bob, bạn tớ hồi tớ làm ở rạp xiếc Gassot. Chính anh ấy đã dạy tớ tiếng Anh đấy. Sau khi trình diễn xong những bản nhạc du dương của người da đen, Bob đến chỗ chúng tôi. Và cứ xem cái cách anh ta lại gần Mattia, tôi hiểu được người bạn đường của tôi đã được mọi người yêu quý như thế nào. Đến một người anh ruột cũng không có được niềm vui trong ánh mắt, trong giọng nói như của anh hề da đen này, người mà "qua cái nghiệt ngã của thời gian buộc phải trở thành ca sĩ hát rong" như anh ta bảo chúng tôi. Nhưng chúng tôi phải mau chóng chia tay để anh ta còn đi theo đoàn, chúng tôi thì về nhà. Hai người bạn đành phải để tới chủ nhật sau mới có dịp vui sướng kể nhau nghe đã từng làm gì từ khi xa cách. Có lẽ vì tình bạn với Mattia nên Bob rất muốn tỏ thiện cảm với tôi, thế là chẳng.bao lâu chúng tôi có một người bạn chân tình mà nhờ kinh nghiệm và những lời khuyên của anh, cuộc sống ở Londres đối với chúng tôi dễ chịu hơn suốt từ hồi nào cho tới lúc này. Cứ như thế chúng tôi đến gần lễ Giáng sinh. Lẽ ra phải đi biểu diễn buổi sáng thì chúng tôi lên đường mỗi buổi tối, vào lúc tám hoặc chín giờ, để tới những khu mà chúng tôi đã chọn sẵn. Nhưng những ngày lễ Giáng sinh đã qua rồi mà James Milligan vẫn chưa xuất hiện. Sau Giáng sinh lại phải ra đi ban ngày chẳng còn mấy cơ hội trông thấy hắn ta nữa. Không nói là chúng tôi đang bận tâm vì cái gì, Mattia cởi mở tâm tình với anh bạn Bob của chúng tôi, hỏi anh xem có thể tìm được địa chỉ một bà tên là Milligan hoặc một ông tên là James Milligan không. Nhưng Bob trả lời phải biết địa vị xã hội của họ hoặc nghề nghiệp của họ thì mới được. Ở Londres nhất là trong cả nước Anh có biết bao người tên là Milligan. Chúng tôi không nghĩ tới chuyện này nữa. Mattia có ý kiến như sau: nó muốn chúng tôi quay về Pháp. Nó nói, ở đó chúng tôi có nhiều cơ hội gặp lại Arthur và bà Milligan hơn. Lúc nào nó cũng nói đi nói lại ý nghĩ đó, nhưng tôi muốn trung thực với gia đình tôi nên từ chối không chịu trốn. Mattia khẳng định rằng gặp được bà Milligan tôi sẽ gặp gia đình đích thực của tôi. Nó nói thế với vẻ rất lạ nhưng không nói thêm gì. Thời gian cứ chậm chạp trôi đi, đã tới lúc gia đình tôi từ bỏ Londres để đi khắp nước Anh. Hai chiếc xe lưu động đã được sơn lại, chất đầy ắp những hàng hóa mà chúng có thể chứa nổi, hàng hóa thì người ta lôi ra từ hầm bí mật trong nhà xe. Cuối cùng mọi thứ đã sẵn sàng để ra đi. Tối hôm trước, cha tôi đã báo cho chúng tôi biết là chúng tôi sẽ đi theo họ, nhưng vẫn làm nghề chơi đàn. Chúng tôi lại đi trên những con đường lớn. Chúng tôi cứ theo sau hai cái xe, qua vùng đồng quê tươi đẹp thở không khí trong lành. Mỗi khi tới một ngôi làng lớn, họ đưa xe ra một chỗ rộng, hạ một bên thành xe xuống bày hàng ra trước sự tò mò của người mua. - Hãy xem giá cả này! Xem giá cả này!... Cha tôi la lên... Không ở đâu rẻ như thế. Tôi nghe thấy tiếng người mua xem hỏi giá rồi bỏ đi: - Chỉ có là đồ ăn cắp mới rẻ thế. Giá họ đưa mắt về phía tôi hẳn họ chẳng phải nghi ngờ gì nữa khi thấy mặt tôi đỏ lên. Nếu như họ không thấy tôi bối rối thì Mattia thấy được điều này. Buổi tối nó bảo tôi: - Việc gì cậu cứ phải chịu đựng mãi nỗi hổ thẹn này nhỉ, Rémi? Chẳng lẽ cậu nghĩ cảnh sát để yên không hỏi xem tại sao ông Driscoll bán hàng với giá rẻ thế? Tất cả chúng ta đều có thể bị bắt. Làm sao chứng minh được là ta không làm gì? Bào chữa cho mình thế nào? Ta hãy xem có cơ hội nào là lập tức chuồn ngay. Tớ có linh cảm sắp xảy ra tai họa đến nơi. Xin cậu, Rémi, ta hãy quay lại Pháp đi! - Cho tớ vài ngày nữa, rồi chúng ta sẽ xem. - Mau mau lên! Tớ cảm thấy nguy hiểm chẳng khác gì con yêu tinh ngửi thấy mùi thịt tươi. Chưa bao giờ những lời nói, lời cầu khẩn của Mattia làm cho tôi bối rối đến như thế. Mỗi khi nhớ lại những lời đó, tôi lại tự bảo mình là sự do dự khiến tôi trăn trở thật là hèn, tôi phải quyết định một bề thôi. Hoàn cảnh đã làm những gì mà tôi không dám làm. Một hôm, cha tôi đến đóng đô ở một thành phố, cho rằng ở đó làm ăn được. Tới nơi sớm, lại không phải bày hàng nên tôi và Mattia đi xem trường đua ngựa ở cách thành phố khá xa. Nhiều căn lều được dựng lên, từ xa đã có thể nhìn thấy những cột khói nhỏ đánh dấu giới hạn trường đua. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đổ ra một con đường trũng xuống nơi đất truông mọi khi cằn cỗi trơ trụi chiều thì nay đầy lán hàng dựng bằng ván gỗ trong đó có các quán rượu, xe cộ hoặc đơn giản là những trại đóng quân ngoài trời. Qua trước một ngọn lửa, chúng tôi gặp bạn chúng tôi, anh Bob. Thấy chúng tôi anh vui lắm. Anh ở đó cùng các bạn anh để tổ chức biểu diễn sức mạnh và sự khéo léo, nhưng mấy nhạc công họ trông chờ lại lỡ hẹn, thành ra mọi chuyện có nguy cơ hỏng bét. Mattia nói với Bob, nếu muốn, chúng tôi có thể giúp anh ta về khâu này. Tiền thu được sẽ chia ra làm năm, lại có cả một phần cho Capi. Vì chúng tôi tự do muốn làm gì thì làm tùy thích, nên chỉ với điều kiện đem lại thu nhập khá thì chúng tôi nhận lời ngay. Nhưng khi về nhà thông báo cho cha tôi biết việc thu xếp này, bỗng nảy ra một khó khăn. - Ngày mai cha cần Capi. Ông bảo tôi. Họ lại cần Capi cho một công việc bẩn thỉu nào chăng? Nhưng cha tôi làm tiêu tan nỗi lo ngại của tôi ngay tức khắc: - Capi tai thính, cái gì nó cũng nghe thấy, canh gác rất tốt. Chúng ta cần nó để giữ xe. Đông thế này, họ có thể lấy cắp hàng của chúng ta. Chỉ hai đứa đi chơi đàn với Bob thôi. Nếu công việc kéo dài thâu đêm, mà có thể như vậy lắm, thì các con tìm chúng ta ở quán Cây Sồi Lớn, bọn ta ngủ ở đó. Sáng hôm sau, sau khi săn sóc Capi cẩn thận không để nó thiếu thốn cái gì, chính tay tôi buộc nó vào trục chiếc xe mà nó có nhiệm vụ canh gác. Rồi chúng tôi đi đến trường đua. Vừa đến nơi, chúng tôi bắt đầu chơi đàn ngay, và chơi không nghỉ cho đến tận chiều tối. Các đầu ngón tay tôi đau buốt như bị hàng ngàn cái gai đâm vào, còn Mattia thổi kèn đẩy đến hụt hơi thở không nổi nữa. Tuy nhiên Bob và các bạn anh vẫn không thôi biểu diễn các tiết mục. Tối đến, tôi tưởng đã đến lúc chúng tôi được nghỉ ngơi, hóa ra lại phải chuyển sang một tiệm rượu lớn để diễn. Rồi các tiết mục nhào lộn và âm nhạc lại tiếp diễn hăng hái hơn bao giờ hết. Cứ như thế cho tới nửa đêm. Tôi không còn biết mình đang chơi bản nhạc gì. Mattia cũng chẳng hơn gì tôi. Các bạn tôi cũng mệt rã rời, làm hỏng một trò diễn. Đến một lúc, cái sào lớn phục vụ biểu diễn rơi ngay xuống trúng đầu ngón chân Mattia, đau đến nỗi nó kêu lên một tiếng, thịt rách ra. Tuy xương không bị gãy, nhưng Mattia không đi được nữa. Thế là mọi người quyết định: tôi và Mattia ngủ lại trong xe của Bob, sáng mai hẵng trở về quán. Ngủ chỉ được vài tiếng đồng hồ nhưng cũng đủ làm tôi lại sức. Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy chuẩn bị ra về nếu như Mattia, lúc ấy còn đang ngủ, có thể đi theo tôi. Ra khỏi xe, tôi đi lại phía Bob đang nhóm lửa. Mặc dù chăm chú xem anh ta đang dùng hết sức lực thổi phù phù dưới cái nồi, nhưng tôi dường như thoáng nhận ra con Capi đang bị một cảnh sát dẫn đi. Giật mình, tôi đứng lặng người tự hỏi thế nghĩa là thế nào. Chưa kịp phản ứng gì thì Capi đã nhận ra tôi. Nó liền giật thật mạnh khỏi dây buộc, thoát khỏi tay.người cảnh sát, chạy thật nhanh tới chỗ tôi và lao vào vòng tay tôi. Viên cảnh sát bước tới, hỏi: - Có phải con chó này của anh không? - Vâng. - Thế thì tôi bắt anh. Và anh ta nắm lấy cánh tay tôi. Bob đứng lên: - Tại sao anh giữ thằng bé này? Bob hỏi. - Anh là anh nó à? - Không, là bạn. - Đêm qua có một người đàn ông và một thằng bé chui vào nhà thờ Saint-Georges qua một chiếc cửa sổ ở trên cao bằng một cái thang, có cả con chó này đi theo để canh gác nếu có ai làm phiền họ. Đúng là có người đến thật. Họ nhanh chóng bỏ trốn không kịp mang theo con chó. Nhờ con chó này chắc chắn tôi sẽ tóm được kẻ gian. Thế là tóm được một rồi. Cha anh đâu? Tôi hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra: không phải người ta hỏi mượn tôi Capi để giữ xe mà để thông báo cho bọn ăn cắp trong nhà thờ biết có người đến. Tôi phải tự mình bào chữa cho mình thôi. Mattia bị cuộc nói chuyện giữa chúng tôi làm thức giấc, ra khỏi xe. - Anh hãy giải thích cho họ biết làm sao em có thể phạm tội được vì suốt đêm em ở đây với các anh cơ mà. Bob dịch lời tôi nói cho viên cảnh sát nghe nhưng ông ta không tin như là tôi hy vọng. - Cái gì chứng tỏ điều đó là thực? Viên cảnh sát nói. - Tôi thề như thế chứ còn sao nữa! Bob kêu lên. - Ồ! Anh ấy à, anh mà làm chứng thì còn phải xem lại đã. - Này anh đừng có mà lăng nhục tôi... Bob nói một cách tự trọng... Tôi là công dân Anh đấy nhé! - Trong khi chờ đợi, tôi hãy cứ đưa thằng bé này đi đã. Nó sẽ giải thích với ông thẩm phán sau. Tôi giữ cả con chó, nó sẽ giúp tôi tìm thấy mấy kẻ kia. Nhà tù mà họ giam tôi không phải để đùa như cái nhà tù ở trong chất đầy hành mà tôi và Mattia bị giam lúc trước. Đây là một nhà tù thực sự, cửa sổ có chấn song lớn bằng sắt mà chỉ nhìn thấy thôi đã tiêu tan ngay mọi ý định vượt ngục. Toàn bộ đồ đạc chỉ có một ghế dài và một cái võng. Tôi ngả người xuống chiếc ghế và suy nghĩ rất lung về hoàn cảnh đáng buồn của mình. Tối hôm qua mệt như thế, nhưng do lo lắng quá tôi không sao ngủ được. Tôi cũng không buồn đả động gì đến thức ăn mà người ta mang cho tôi. Ngược lại, tôi vồ lấy nước mà uống, tôi khát đến cháy họng. Tôi muốn chuẩn bị các câu trả lời để cãi cho mình, nhưng tôi hoảng hốt quá. Ái chà! Mattia mới có lý làm sao! Lẽ ra tôi phải nghe nó! Sáng hôm sau, một người cai ngục tới dẫn tôi vào phòng lớn của tòa án. Một làn gió nóng thổi vào mặt tôi, tôi nghe thấy tiếng rì rầm khó phân biệt. Liếc mắt một cái, tôi thấy ngay toàn cảnh rõ nét đang ở quanh tôi. Đó là phòng xử của tòa án, trong phòng đầy những người. Phòng xử khá rộng, trần cao, cửa sổ lớn, chia ra hai khoảng ngăn cách với nhau, một dành cho tòa, phần kia mở ra công chúng. Trên một cái bục cao có quan tòa ngồi, trước mặt quan tòa ở vị trí thấp hơn là ba vị thẩm phán, còn trước cái đài ngồi của tôi là một nhân vật mặc áo dài đeo tóc giả: luật sư của tôi. Làm sao mà tôi có được một luật sư nhỉ? Do Mattia và Bob gửi đến chăng? Những câu hỏi này chưa phải lúc để trả lời. Tôi có một luật sư, thế là đủ. Trong một cái đài ngồi khác, tôi nhìn thấy Bob, hai anh bạn và nhiều người khác nữa mà tôi không quen. Còn trong một cái đài khác nữa là viên cảnh sát cùng một số người. Tôi hiểu đây là chỗ ngồi của những người làm chứng. Nơi dành cho công chúng ngồi chật ních. Tôi thấy Mattia, ánh mắt chúng tôi giao nhau. Bỗng chốc tôi thấy mình can đảm trở lại. Một trong các thẩm phán lên tiếng, ông giải thích tóm lược tình hình câu chuyện: Một vụ ăn cắp xảy ra ở nhà thờ Saint-Georges, kẻ cắp là một người đàn ông và một đứa bé, dùng thang leo vào nhà thờ qua một cửa sổ mà chúng đập vỡ kính ra, chúng mang theo một con chó để canh gác. Một người qua đường về muộn thấy.lạ vì có ánh sáng le lói trong nhà thờ. Ông ta lắng nghe thì có tiếng như tiếng vỡ. Ngay tức khắc, ông đánh thức người coi nhà thờ dậy. Người ta đến khá đông, nhưng con chó sủa lên. Thế là trong khi mọi người mở cửa, bọn kẻ cắp đã kịp có thời gian tẩu thoát qua cửa sổ, bỏ lại con chó. Trong khi bị cảnh sát Jerry dẫn đi, con chó này đã nhận ra chủ mình, chính là thằng bé ngồi trên cái ghế dài kia. Hiện giờ, cảnh sát đang truy lùng tên kẻ cắp thứ hai. Sau một vài nhận xét chứng tỏ tôi phạm tội, ông thẩm phán ngừng lời, sau đó một giọng the thé cất lên: - Im lặng! Quan tòa không buồn nhìn về phía tôi mà như tự nói với chính mình, hỏi tôi tên tuổi, nghề nghiệp. Tôi trả lời những câu hỏi của quan tòa, sau đó xin phép được nói bằng tiếng Pháp. Tôi giải thích mình không thể ở nhà thờ vào giờ đó được bởi vì lúc đó tôi ngủ nơi trường đua ngựa cùng với các bạn tôi. - Vậy anh giải thích thế nào về sự có mặt của con chó của anh trong nhà thờ? Quan tòa hỏi, tỏ ra kém tin tưởng ở những lời khẳng định của tôi. - Tôi không giải thích. Con chó không đi cùng với tôi. Buổi sáng tôi buộc nó vào một chiếc xe của chúng tôi. Tôi không nói gì thêm vì sợ người ta dùng lời khai này làm bằng chứng buộc tội cha tôi. Người ta cho gọi nhân chứng, chính là người giữ nhà thờ. Người này tuyên thệ trên quyển Thánh Kinh là sẽ nói sự thật, không vì ghét hoặc vì yêu. Đó là một con người nhân hậu, thấp lùn, trông cực kỳ oai vệ mặc dầu mặt thì đỏ, mũi thì xanh nhợt. Ông ta bắt đầu kể lể dài dòng, nào là mình đang hoang mang và phẫn nộ như thế nào khi người ta đến đánh thức bảo là có kẻ trộm trong nhà thờ, nào là lúc đầu cứ tưởng mọi người đùa mình, nhưng ai lại đùa với những người có tính cách như ông bao giờ, cho nên ông hiểu là đã xảy ra một chuyện gì nghiêm trọng. Ông vội chạy tới, mở cửa nhà thờ ra, và thấy... một con chó ở trong đó. Tôi không có gì để trả lời cho việc này, nhưng luật sư của tôi suốt từ đầu không nói gì bèn đứng dậy, lắc lắc bộ tóc giả, xốc lại chiếc áo dài trên vai và lên tiếng:. - Tối qua ai đóng cửa nhà thờ? Ông ta hỏi. - Tôi. Người gác nhà thờ trả lời. - Ông có chắc không? - Tôi làm gì là chắc chắn đã làm việc ấy. - Được. Thế ông có chắc chắn đã khóa cả con chó ở trong nhà thờ không? - Nếu con chó có ở trong nhà thờ thì tại sao tôi không trông thấy nó. - Mắt ông có tốt không? - Mắt tôi cũng như mắt mọi người. - Cách đây sáu tháng, có phải ông đã đâm đầu vào bụng một con bê phơi mình treo ở trước cửa một cửa hàng bán thịt không? - Tôi không thấy một câu hỏi như vậy có lợi gì khi đưa ra cho một người có tính cách như tôi. Người giữ nhà thờ kêu lên mặt hóa xanh ra. - Xin ông hết lòng làm ơn trả lời câu hỏi này. - Đúng là tôi có va vào một con bê treo một cách vô ý thức trước cửa một hàng thịt. - Ông không trông thấy nó ư? - Lúc ấy tôi đang bận tâm nghĩ tới chuyện khác. - Khi ông đóng cửa nhà thờ có phải ông vừa ăn cơm tối xong không? - Hẳn là thế rồi. - Thế khi ông đâm đầu vào con bê ông chưa ăn cơm tối chứ? - Rồi, nhưng... - Trong khi ăn cơm tối ông uống mấy vại bia? - Hai. - Có khi nào uống nhiều hơn không? - Đôi khi ba. - Sau bữa cơm có uống một cốc rượu trắng pha chanh với đường nữa chứ? - Thỉnh thoảng thôi. - Mấy cốc? Vì người giữ nhà thờ không trả lời, mặt càng ngày càng xanh, ông luật sư lại ngồi xuống, vừa ngồi vừa nói: - Cuộc thẩm vấn này đủ tỏ ra rằng có thể con chó đã bị người làm chứng vừa rồi khóa trong nhà thờ từ trước. Ông này cứ sau bữa cơm.tối do bận lòng lo lắng cái gì đó nên không nhìn thấy cả những con bê nữa. Đó là tất cả những gì tôi muốn biết. Giá mà dám, chắc là tôi đã ôm hôn ông luật sư. Tôi thoát rồi! Sau người giữ nhà thờ, người ta còn nghe nhiều người làm chứng khác, rồi nghe đến các bạn tôi. Cuộc hỏi cung chấm dứt, quan tòa hỏi tôi có muốn nói thêm gì không. Tôi trả lời là tôi vô tội, tôi xin phó thác mình vào công lý của tòa án. Lúc đó, quan tòa cho đọc biên bản rồi tuyên bố tôi sẽ chuyển sang nhà tù của quận chờ đại bồi thẩm đoàn quyết định xem có bị gọi ra tòa đại hình hay không. Tôi xỉu đi trên chiếc ghế dài. Rất lâu sau khi vào lại nhà tù, tôi tìm ra lý do để giải thích cho mình vì sao không được tha: quan tòa còn đợi bắt được những người vào trong nhà thờ đã, để xem tôi có đồng lõa với họ không. Ông thẩm phán nói là người ta đang theo hút họ. Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ phải đau khổ và nhục nhã xuất hiện bên cạnh họ trên ghế của tòa đại hình. Biết bao câu hỏi trong óc tôi làm cho thời gian trôi nhanh hơn tối qua. Trước nửa đêm một chút, tôi nghe có tiếng kèn đẩy, tôi nhận ra cách chơi kèn của Mattia. Tiếng kèn vẳng tới tai tôi qua bức tường trước mặt cái cửa sổ phòng giam tôi. Cùng với tiếng kèn có tiếng bước chân và tiếng rì rầm mơ hồ. Tôi đến mở cửa sổ ra. Tôi mở vô cùng thận trọng tránh cho nó kêu lên. Cuối cùng, nhờ hết sức nhẹ nhàng tôi đạt được kết quả. Tôi đứng đó lắng tai nghe ngóng. Bỗng nhiên có đầu ai thò lên trên bờ tường: đó là đầu Bob. Anh ta lấy tay ra hiệu cho tôi đứng xa cửa sổ ra. Tôi nghe theo tuy không hiểu gì. Tay kia hình như Bob cầm một ống xì đồng, để lên miệng. Tôi nghe thấy một tiếng thổi, đồng thời trông thấy một cục tròn màu trắng bay vào rơi dưới chân tôi. Ngay lập tức đầu Bob biến mất, tiếng kèn đẩy cũng im. Tôi không nghe thấy gì nữa. Tôi đóng cửa sổ lại, vồ lấy cục giấy mở ra đọc: "Tối mai, người ta đưa cậu đến nhà tù quận. Cậu sẽ đi tàu và ở trong toa tàu cùng với một cảnh sát. Hãy ngồi gần cửa toa chỗ cậu bước lên. Khi chạy được độ bốn mươi nhăm phút (nhớ xem đồng hồ cho kỹ), tàu sẽ đi chậm lại vì có chỗ ngoặt. Lúc đó, hãy mở cánh cửa toa tàu ra và dũng cảm lao xuống. Khi lao xuống nhớ duỗi hai tay ra phía trước, sao cho rơi xuống trên hai chân. Liền ngay đó, cậu phải nhah chóng leo lên sườn dốc bên trái, bọn tớ sẽ ở đó cùng một cái xe và một con ngựa tốt. Đừng sợ gì cả. Hai ngày sau ta sẽ về đến Pháp. Can đảm lên!" Thế là thoát rồi! Không phải xuất hiện trước tòa đại hình! Ôi! Những người bạn tốt! Tuy nhiên, trong niềm vui bồng bột, tôi có một ý nghĩ buồn: Còn Capi? Nhưng tôi nhanh chóng gạt bỏ ý nghĩ này. Không đời nào Mattia bỏ Capi. Nếu nó tìm được cách cho tôi vượt ngục, chắc hẳn nó cũng tìm được cách cho Capi trốn thoát. Tôi đọc đi đọc lại mẩu giấy hai ba lần nữa rồi nhai nuốt nó đi. Tôi ngủ yên ả. Thời gian trôi khá nhanh và chiều hôm sau, một viên cảnh sát vào ngục bảo tôi đi theo ông ta. Tôi hài lòng thấy đó là một người khoảng năm mươi tuổi, thân hình không có vẻ mềm mại lắm. Vậy là mọi việc có thể diễn biến theo chỉ dẫn của Mattia. Lúc tàu sắp chạy, tôi ngồi gần cửa toa tàu, viên cảnh sát ngồi trước mặt tôi. Chỉ có hai chúng tôi ở trong toa. Tôi dựa vào cửa toa tàu mà cửa kính mở ra. Tôi xin phép viên cảnh sát được nhìn quang cảnh bên ngoài nơi chúng tôi đi qua. Viên cảnh sát đồng ý, ông ta sợ gì cơ chứ? Tàu đang chạy nhanh. Bỗng nhiên không khí lạnh tạt vào mặt viên cảnh sát. Ông ta vội tránh xa cửa, vào ngồi ở giữa toa tàu. Tôi chẳng biết lạnh là gì, nhẹ nhàng thò tay trái ra ngoài mở nắm cửa sẵn, tay phải thì giữ lấy cánh cửa. Sau bốn mươi lăm phút như Mattia đã dặn, đầu tàu rú còi và chạy chậm lại. Đến lúc rồi. Tôi nhanh nhẹn đẩy cánh cửa tàu và nhảy xuống xa nhất có thể. Tôi rơi xuống một cái hố. Cú sốc mạnh quá làm tôi lăn ra đất, ngất đi. Khi tỉnh lại tôi cứ tưởng mình vẫn còn ở trong tàu vì thấy mình lắc lư, bồng bềnh. Rồi tôi nghe thấy tiếng bánh xe lăn và nhận ra mình nằm trên một lớp rơm. Má tôi, trán tôi có ai vuốt ve. Một cái vuốt ve mềm và ấm. Tôi mở mắt. Một con chó màu vàng nằm trên mình tôi và đang liếm cho tôi. Luồng mắt tôi gặp mắt Mattia đang quỳ bên cạnh tôi. - Cậu thoát rồi. Nó vừa nói vừa gạt con chó ra, ôm lấy tôi. - Chúng ta đang ở đâu thế này? - Trên xe ngựa do Bob chở. - Em thế nào rồi? Bob hỏi. - Em cũng không biết nữa. Có lẽ tốt thôi, hình như thế. - Cử động tay, cử động chân xem nào. Bob kêu. Đang nằm thẳng trên nệm rơm, tôi làm như Bob bảo. - Tốt rồi... Mattia nói... Không chỗ nào bị gãy cả. - Nhưng mọi việc xảy ra thế nào nhỉ? - Cậu nhảy tàu, chấn động làm cậu choáng váng. Cậu rơi vào một cái hố. Không thấy cậu đâu, Bob bèn chạy xuống sườn dốc tìm cậu trong khi tớ giữ cương ngựa. Chúng mình tưởng cậu đã chết cơ đấy. Sợ quá! - Còn viên cảnh sát thì sao? - Đi theo tàu. Tàu có dừng lại đâu. Tôi đã biết những điều cơ bản. Tôi nhìn quanh thấy một con chó vàng nhìn tôi âu yếm, đôi mắt dịu dàng. - Còn Capi?... Tôi hỏi... Nó đâu? Mattia chưa kịp trả lời thì con chó vàng nhảy lên người tôi vừa liếm tôi vừa rên ư ử. - Nó đấy thôi!... Mattia nói... Bọn tớ nhuộm nó đi. Tôi vuốt ve con Capi tốt bụng, rồi tôi hôn nó. Bob quay lại phía chúng tôi và bảo Mattia: - Em cầm cương ngựa một lát. Anh phải làm cho không ai nhận ra cái xe khi đến chỗ chắn đường nữa. Đây là một cái xe phủ vải bạt trên những cái vòng. Sau khi tháo các vòng đai và gấp tấm vải bạt đặt vào trong xe, Bob bảo tôi lấy vải bạt phủ lên người và khuyên Mattia cũng ẩn mình dưới tấm vải. Làm như vậy cái xe hoàn toàn thay hình đổi dạng. Nếu người ta đuổi theo chúng tôi, các dấu hiệu mọi người kể lại sẽ làm mọi tìm kiếm bị lạc hướng. - Ta đi đâu thế này? Tôi hỏi Mattia khi nó nằm dài bên cạnh tôi. - Đi Littlehampton, một hải cảng nhỏ. Ở đấy, Bob có người anh ruột chỉ huy một cái tàu chuyên đi Pháp mua bơ và trứng ở Norman-die, Isigny. Nếu ta trốn thoát mà chắc chắn là.chúng ta sẽ trốn được, đó là nhờ ở Bob. Bob làm tất cả đấy, chứ còn tớ, thằng bé khốn khổ tội nghiệp, tớ làm gì được cho cậu đâu! Chính Bob nghĩ ra chuyện bảo cậu nhảy tàu, mượn bạn bè cái xe và con ngựa này. Rồi lại kiếm cho ta một cái tàu để mà về Pháp, bởi vì nếu cậu đi tàu chạy bằng hơi nước, cậu sẽ bị bắt ngay. Cậu xem đấy, có bạn bè tốt thật là sung sướng. - Còn Capi, ai có ý định đem nó đi theo? - Tớ, nhưng Bob là người quyết định nhuộm lông nó thành màu vàng để người ta không nhận ra nó nữa. Chúng mình ăn trộm nó từ viên cảnh sát Jerry. Con Capi cũng cảm thấy ở tớ có chuyện gì đó nên để tớ muốn làm gì thì làm. Hơn nữa Bob còn biết rõ tất cả mọi thuật của bọn ăn cắp chó. - Còn chân cậu thế nào? - Khỏi rồi, hoặc gần như khỏi. Tớ chẳng còn thì giờ nghĩ đến nó nữa. Chúng tôi đi rất nhanh vì ngựa tốt, Bob đánh xe cũng giỏi. Tuy nhiên, chúng tôi phải dừng lại cho con ngựa thở một chút và cho nó ăn. Bob dừng lại giữa rừng, tháo ngựa và đeo vào cổ nó một cái túi dết đựng đầy lúa mạch lấy trong xe. Đêm tối như bưng, nguy cơ bị bắt lại là rất thấp. Lúc đó, tôi quay sang nói chuyện với Bob, hết lòng cảm ơn anh vì những gì anh đã làm cho chúng tôi. Nhưng anh ngăn lại, không cho tôi nói hết những điều tôi cảm thấy. - Bọn em đã giúp anh... Anh nói và bắt tay tôi... Giờ đến lượt anh. Hơn nữa, em gần như là anh ruột của Mattia rồi còn gì. Mà đối với một cậu bé tốt như Mattia thì người ta sẵn sàng làm cho nó mọi việc. Tôi hỏi anh xem chúng tôi còn xa Little-hampton không. Anh trả lời còn phải đi hai giờ nữa và chúng tôi phải gấp lên vì tàu của ông anh cứ đến sáng sớm thứ bảy, lúc thủy triều lên, là đi Isigny. Mà hôm nay đã là thứ sáu rồi. Chúng tôi lại lên nằm trên ổ rơm dưới tấm vải bạt, con ngựa đã được nghỉ ngơi giờ đi rất nhanh. - Cậu có sợ không? Mattia hỏi tôi. - Có và không. Tớ rất sợ bị bắt lại nhưng xem ra người ta không bắt lại tớ được. Chỉ có một điều cứ giày vò tớ, đó là đi trốn chẳng khác gì mình có tội. Sẽ bào chữa cho mình thế nào bây giờ? - Bọn mình cũng đã nghĩ đến điều đó, nhưng Bob tin rằng phải làm tất cả để cậu khỏi phải.xuất hiện trên ghế của tòa đại hình. Phải ngồi đó thì phiền lắm, ngay cả được tha bổng cũng vậy. Tớ thì tớ không dám nói gì, bởi vì dù gì đi nữa cũng phải đưa cậu về Pháp, tớ sợ rằng ý định đó có thể khiến tớ khuyên cậu lầm chăng. - Cậu làm thế là phải, và dù xảy ra cái gì chăng nữa thì tớ cũng chỉ có thể cảm ơn cậu và anh Bob mà thôi. - Sẽ không xảy ra cái gì đâu, cậu yên tâm đi. Khi tàu hỏa đến ga, viên cảnh sát của cậu sẽ phải báo cáo chuyện cậu bỏ trốn, nhưng trước khi tổ chức xong việc truy tìm cậu thì đã mất khối thì giờ rồi. Mà ta thì lại đang phi nước đại. Hơn nữa họ đâu biết ta xuống tàu ở Littlehampton mà theo. Chắc chắn là, nếu họ không theo hút chúng tôi, chúng tôi sẽ có cơ may xuống tàu không lo gì cả, nhưng tôi không yên tâm bằng Mattia. Trong khi đó con ngựa của chúng tôi, được Bob điều khiển một cách mạnh mẽ, vẫn tiếp tục chạy trốn rất nhanh trên con đường vắng vẻ. Chỉ thỉnh thoảng chúng tôi mới bắt gặp một vài chiếc xe khác. Những ngôi làng chúng tôi đi qua đều im ắng, lâu lâu mới có một cửa sổ còn sáng đèn muộn. Chỉ có vài con chó chú ý đến xe chúng tôi đang chạy nhanh nên sủa theo mà thôi. Sau khi leo một đoạn đường dốc đứng, Bob dừng ngựa lại cho nó thở. Chúng tôi xuống xe, dán tai xuống đất nghe ngóng, nhưng ngay cả Mattia, tai thính hơn chúng tôi, cũng không nghe thấy tiếng động nào khả nghi. Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình trong bóng tối và tĩnh lặng của đêm trường. Bây giờ không phải chúng tôi nằm dưới tấm vải bạt để trốn nữa mà là để tránh những cơn gió lạnh. Rồi một lúc sau, chúng tôi chợt cảm nhận thấy vị mặn của muối ở đầu lưỡi. Đã gần đến biển. Chẳng mấy chốc, chúng tôi nhìn thấy một luồng ánh sáng cứ từng khoảng cách đều đặn biến đi, rồi lại hiện ra rực rỡ. Đó là chiếc đèn pha của một con tàu. Chúng tôi đã đến nơi. Bob dừng ngựa, đưa nó đi thong thả nhẹ nhàng vào một con đường ngang. Rồi anh xuống xe, bảo chúng tôi cứ ở yên đó, giữ lấy ngựa. Anh đi xem anh của mình đã khởi hành chưa và liệu chúng tôi xuống thuyền có nguy hiểm không. Tôi thú thật là thời gian Bob vắng mặt đối với tôi sao mà lâu quá. Chúng tôi không ai nói gì, chỉ nghe sóng biển đập vào bờ cát sỏi ở gần đâu đấy với tiếng động đều đều càng làm tăng nỗi xúc động của chúng tôi. Mattia run bắn lên, tôi cũng vậy. Cuối cùng, chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân ở con đường lúc nãy Bob đi. Chính là Bob trở lại. Anh không đi một mình. Khi anh tới gần, chúng tôi trông thấy một người đi cùng với anh. Đó là một người đàn ông mặc chiếc áo va-rơi bằng vải dầu và đội một cái mũ len. - Đây là anh trai của anh... Bob nói... Anh ấy sẵn lòng nhận các em lên tàu. Ta chia tay nhau ở đây thôi. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong những hoàn cảnh tốt đẹp hơn, anh hứa với các em như thế. Anh không nói thêm lời nào nữa và ôm hôn từng đứa chúng tôi, rất xúc động. Họng chúng tôi nghẹn lại không biết nói gì. Bob ra đi không một tiếng động trong đêm tối. Chúng tôi đi theo anh trai của Bob, và chẳng bao lâu đã đi vào những con phố tĩnh mịch của thành phố. Rồi sau vài khúc ngoặt, bến cảng đã hiện ra trước mặt. Anh của Bob chỉ con tàu của mình cho chúng tôi, không nói gì. Sau khi xuống tàu, anh đưa chúng tôi vào một ca-bin nhỏ. - Hai tiếng nữa anh mới khởi hành... Anh nói... Bọn em đừng gây tiếng động nhé. Khi anh đã khóa cửa ca-bin, Mattia sà vào vòng tay tôi không một tiếng động, ôm hôn tôi. Nó không run nữa.Hết
Chọn chương để xem
Serve 1
Chúng tôi chỉ còn nói tới Arthur và bà Mil-ligan.
Họ đang ở đâu? Chúng tôi biết tìm họ ở đâu?
Chuyến viếng thăm của ông James Milligan làm chúng tôi nảy ra một ý nghĩ và đưa ra một kế hoạch mà kết quả xem ra là chắc chắn. Vì James Milligan đã đến nhà cha mẹ tôi một lần thế nào ông ta chẳng đến nữa? Chắc ông ta có làm ăn gì đó với cha tôi. Vậy thì khi nào ông ta ra về, Mattia sẽ đi theo; biết chỗ ở của ông ta rồi sẽ lân la hỏi chuyện bọn đầy tớ, từ những tin tức này có thể đến được chỗ Arthur.
Đã đến lúc mà, đáng lẽ phải đi chơi đàn trong các phố vào ban ngày chúng tôi lại đi vào ban đêm bởi vì đúng vào nửa đêm mới là những buổi hòa nhạc Giáng sinh. Như vậy ban ngày ở nhà, một trong hai đứa chúng tôi sẽ canh gác, thế nào chẳng có lúc chộp được ông chú Arthur.
Một hôm, trong khi đi dạo phố phường, tôi thấy một người giả da đen mặc quần áo lố lăng có đuôi chim làm hiệu cho Mattia. Lúc đầu tôi cứ tưởng một trò hề để làm vui công chúng mà chúng tôi là nạn nhân, nhưng thật ngạc nhiên Mattia thân mật đáp lại.
- Cậu quen anh ta à? Tôi hỏi Mattia.
- Đó là Bob, bạn tớ hồi tớ làm ở rạp xiếc Gassot. Chính anh ấy đã dạy tớ tiếng Anh đấy.
Sau khi trình diễn xong những bản nhạc du dương của người da đen, Bob đến chỗ chúng tôi. Và cứ xem cái cách anh ta lại gần Mattia, tôi hiểu được người bạn đường của tôi đã được mọi người yêu quý như thế nào. Đến một người anh ruột cũng không có được niềm vui trong ánh mắt, trong giọng nói như của anh hề da đen này, người mà "qua cái nghiệt ngã của thời gian buộc phải trở thành ca sĩ hát rong" như anh ta bảo chúng tôi. Nhưng chúng tôi phải mau chóng chia tay để anh ta còn đi theo đoàn, chúng tôi thì về nhà. Hai người bạn đành phải để tới chủ nhật sau mới có dịp vui sướng kể nhau nghe đã từng làm gì từ khi xa cách. Có lẽ vì tình bạn với Mattia nên Bob rất muốn tỏ thiện cảm với tôi, thế là chẳng.bao lâu chúng tôi có một người bạn chân tình mà nhờ kinh nghiệm và những lời khuyên của anh, cuộc sống ở Londres đối với chúng tôi dễ chịu hơn suốt từ hồi nào cho tới lúc này.
Cứ như thế chúng tôi đến gần lễ Giáng sinh. Lẽ ra phải đi biểu diễn buổi sáng thì chúng tôi lên đường mỗi buổi tối, vào lúc tám hoặc chín giờ, để tới những khu mà chúng tôi đã chọn sẵn.
Nhưng những ngày lễ Giáng sinh đã qua rồi mà James Milligan vẫn chưa xuất hiện. Sau Giáng sinh lại phải ra đi ban ngày chẳng còn mấy cơ hội trông thấy hắn ta nữa.
Không nói là chúng tôi đang bận tâm vì cái gì, Mattia cởi mở tâm tình với anh bạn Bob của chúng tôi, hỏi anh xem có thể tìm được địa chỉ một bà tên là Milligan hoặc một ông tên là James Milligan không. Nhưng Bob trả lời phải biết địa vị xã hội của họ hoặc nghề nghiệp của họ thì mới được. Ở Londres nhất là trong cả nước Anh có biết bao người tên là Milligan.
Chúng tôi không nghĩ tới chuyện này nữa.
Mattia có ý kiến như sau: nó muốn chúng tôi quay về Pháp. Nó nói, ở đó chúng tôi có nhiều cơ hội gặp lại Arthur và bà Milligan hơn. Lúc nào nó cũng nói đi nói lại ý nghĩ đó, nhưng tôi muốn trung thực với gia đình tôi nên từ chối không chịu trốn. Mattia khẳng định rằng gặp được bà Milligan tôi sẽ gặp gia đình đích thực của tôi. Nó nói thế với vẻ rất lạ nhưng không nói thêm gì.
Thời gian cứ chậm chạp trôi đi, đã tới lúc gia đình tôi từ bỏ Londres để đi khắp nước Anh.
Hai chiếc xe lưu động đã được sơn lại, chất đầy ắp những hàng hóa mà chúng có thể chứa nổi, hàng hóa thì người ta lôi ra từ hầm bí mật trong nhà xe.
Cuối cùng mọi thứ đã sẵn sàng để ra đi. Tối hôm trước, cha tôi đã báo cho chúng tôi biết là chúng tôi sẽ đi theo họ, nhưng vẫn làm nghề chơi đàn.
Chúng tôi lại đi trên những con đường lớn.
Chúng tôi cứ theo sau hai cái xe, qua vùng đồng quê tươi đẹp thở không khí trong lành. Mỗi khi tới một ngôi làng lớn, họ đưa xe ra một chỗ rộng, hạ một bên thành xe xuống bày hàng ra trước sự tò mò của người mua.
- Hãy xem giá cả này! Xem giá cả này!... Cha tôi la lên... Không ở đâu rẻ như thế.
Tôi nghe thấy tiếng người mua xem hỏi giá rồi bỏ đi:
- Chỉ có là đồ ăn cắp mới rẻ thế.
Giá họ đưa mắt về phía tôi hẳn họ chẳng phải nghi ngờ gì nữa khi thấy mặt tôi đỏ lên.
Nếu như họ không thấy tôi bối rối thì Mattia thấy được điều này. Buổi tối nó bảo tôi:
- Việc gì cậu cứ phải chịu đựng mãi nỗi hổ thẹn này nhỉ, Rémi? Chẳng lẽ cậu nghĩ cảnh sát để yên không hỏi xem tại sao ông Driscoll bán hàng với giá rẻ thế? Tất cả chúng ta đều có thể bị bắt. Làm sao chứng minh được là ta không làm gì? Bào chữa cho mình thế nào? Ta hãy xem có cơ hội nào là lập tức chuồn ngay. Tớ có linh cảm sắp xảy ra tai họa đến nơi. Xin cậu, Rémi, ta hãy quay lại Pháp đi!
- Cho tớ vài ngày nữa, rồi chúng ta sẽ xem.
- Mau mau lên! Tớ cảm thấy nguy hiểm chẳng khác gì con yêu tinh ngửi thấy mùi thịt tươi.
Chưa bao giờ những lời nói, lời cầu khẩn của Mattia làm cho tôi bối rối đến như thế. Mỗi khi nhớ lại những lời đó, tôi lại tự bảo mình là sự do dự khiến tôi trăn trở thật là hèn, tôi phải quyết định một bề thôi.
Hoàn cảnh đã làm những gì mà tôi không dám làm.
Một hôm, cha tôi đến đóng đô ở một thành phố, cho rằng ở đó làm ăn được. Tới nơi sớm, lại không phải bày hàng nên tôi và Mattia đi xem trường đua ngựa ở cách thành phố khá xa.
Nhiều căn lều được dựng lên, từ xa đã có thể nhìn thấy những cột khói nhỏ đánh dấu giới hạn trường đua. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đổ ra một con đường trũng xuống nơi đất truông mọi khi cằn cỗi trơ trụi chiều thì nay đầy lán hàng dựng bằng ván gỗ trong đó có các quán rượu, xe cộ hoặc đơn giản là những trại đóng quân ngoài trời. Qua trước một ngọn lửa, chúng tôi gặp bạn chúng tôi, anh Bob. Thấy chúng tôi anh vui lắm. Anh ở đó cùng các bạn anh để tổ chức biểu diễn sức mạnh và sự khéo léo, nhưng mấy nhạc công họ trông chờ lại lỡ hẹn, thành ra mọi chuyện có nguy cơ hỏng bét. Mattia nói với Bob, nếu muốn, chúng tôi có thể giúp anh ta về khâu này. Tiền thu được sẽ chia ra làm năm, lại có cả một phần cho Capi.
Vì chúng tôi tự do muốn làm gì thì làm tùy thích, nên chỉ với điều kiện đem lại thu nhập khá thì chúng tôi nhận lời ngay.
Nhưng khi về nhà thông báo cho cha tôi biết việc thu xếp này, bỗng nảy ra một khó khăn.
- Ngày mai cha cần Capi. Ông bảo tôi.
Họ lại cần Capi cho một công việc bẩn thỉu nào chăng?
Nhưng cha tôi làm tiêu tan nỗi lo ngại của tôi ngay tức khắc:
- Capi tai thính, cái gì nó cũng nghe thấy, canh gác rất tốt. Chúng ta cần nó để giữ xe. Đông thế này, họ có thể lấy cắp hàng của chúng ta. Chỉ hai đứa đi chơi đàn với Bob thôi. Nếu công việc kéo dài thâu đêm, mà có thể như vậy lắm, thì các con tìm chúng ta ở quán Cây Sồi Lớn, bọn ta ngủ ở đó.
Sáng hôm sau, sau khi săn sóc Capi cẩn thận không để nó thiếu thốn cái gì, chính tay tôi buộc nó vào trục chiếc xe mà nó có nhiệm vụ canh gác.
Rồi chúng tôi đi đến trường đua.
Vừa đến nơi, chúng tôi bắt đầu chơi đàn ngay, và chơi không nghỉ cho đến tận chiều tối. Các đầu ngón tay tôi đau buốt như bị hàng ngàn cái gai đâm vào, còn Mattia thổi kèn đẩy đến hụt hơi thở không nổi nữa. Tuy nhiên Bob và các bạn anh vẫn không thôi biểu diễn các tiết mục.
Tối đến, tôi tưởng đã đến lúc chúng tôi được nghỉ ngơi, hóa ra lại phải chuyển sang một tiệm rượu lớn để diễn. Rồi các tiết mục nhào lộn và âm nhạc lại tiếp diễn hăng hái hơn bao giờ hết.
Cứ như thế cho tới nửa đêm.
Tôi không còn biết mình đang chơi bản nhạc gì. Mattia cũng chẳng hơn gì tôi. Các bạn tôi cũng mệt rã rời, làm hỏng một trò diễn. Đến một lúc, cái sào lớn phục vụ biểu diễn rơi ngay xuống trúng đầu ngón chân Mattia, đau đến nỗi nó kêu lên một tiếng, thịt rách ra. Tuy xương không bị gãy, nhưng Mattia không đi được nữa.
Thế là mọi người quyết định: tôi và Mattia ngủ lại trong xe của Bob, sáng mai hẵng trở về quán.
Ngủ chỉ được vài tiếng đồng hồ nhưng cũng đủ làm tôi lại sức.
Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy chuẩn bị ra về nếu như Mattia, lúc ấy còn đang ngủ, có thể đi theo tôi. Ra khỏi xe, tôi đi lại phía Bob đang nhóm lửa. Mặc dù chăm chú xem anh ta đang dùng hết sức lực thổi phù phù dưới cái nồi, nhưng tôi dường như thoáng nhận ra con Capi đang bị một cảnh sát dẫn đi.
Giật mình, tôi đứng lặng người tự hỏi thế nghĩa là thế nào. Chưa kịp phản ứng gì thì Capi đã nhận ra tôi. Nó liền giật thật mạnh khỏi dây buộc, thoát khỏi tay.người cảnh sát, chạy thật nhanh tới chỗ tôi và lao vào vòng tay tôi.
Viên cảnh sát bước tới, hỏi:
- Có phải con chó này của anh không?
- Vâng.
- Thế thì tôi bắt anh.
Và anh ta nắm lấy cánh tay tôi.
Bob đứng lên:
- Tại sao anh giữ thằng bé này? Bob hỏi.
- Anh là anh nó à?
- Không, là bạn.
- Đêm qua có một người đàn ông và một thằng bé chui vào nhà thờ Saint-Georges qua một chiếc cửa sổ ở trên cao bằng một cái thang, có cả con chó này đi theo để canh gác nếu có ai làm phiền họ. Đúng là có người đến thật.
Họ nhanh chóng bỏ trốn không kịp mang theo con chó. Nhờ con chó này chắc chắn tôi sẽ tóm được kẻ gian. Thế là tóm được một rồi. Cha anh đâu?
Tôi hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra: không phải người ta hỏi mượn tôi Capi để giữ xe mà để thông báo cho bọn ăn cắp trong nhà thờ biết có người đến. Tôi phải tự mình bào chữa cho mình thôi.
Mattia bị cuộc nói chuyện giữa chúng tôi làm thức giấc, ra khỏi xe.
- Anh hãy giải thích cho họ biết làm sao em có thể phạm tội được vì suốt đêm em ở đây với các anh cơ mà.
Bob dịch lời tôi nói cho viên cảnh sát nghe nhưng ông ta không tin như là tôi hy vọng.
- Cái gì chứng tỏ điều đó là thực? Viên cảnh sát nói.
- Tôi thề như thế chứ còn sao nữa! Bob kêu lên.
- Ồ! Anh ấy à, anh mà làm chứng thì còn phải xem lại đã.
- Này anh đừng có mà lăng nhục tôi... Bob nói một cách tự trọng... Tôi là công dân Anh đấy nhé!
- Trong khi chờ đợi, tôi hãy cứ đưa thằng bé này đi đã. Nó sẽ giải thích với ông thẩm phán sau. Tôi giữ cả con chó, nó sẽ giúp tôi tìm thấy mấy kẻ kia.
Nhà tù mà họ giam tôi không phải để đùa như cái nhà tù ở trong chất đầy hành mà tôi và Mattia bị giam lúc trước. Đây là một nhà tù thực sự, cửa sổ có chấn song lớn bằng sắt mà chỉ nhìn thấy thôi đã tiêu tan ngay mọi ý định vượt ngục. Toàn bộ đồ đạc chỉ có một ghế dài và một cái võng.
Tôi ngả người xuống chiếc ghế và suy nghĩ rất lung về hoàn cảnh đáng buồn của mình.
Tối hôm qua mệt như thế, nhưng do lo lắng quá tôi không sao ngủ được. Tôi cũng không buồn đả động gì đến thức ăn mà người ta mang cho tôi.
Ngược lại, tôi vồ lấy nước mà uống, tôi khát đến cháy họng.
Tôi muốn chuẩn bị các câu trả lời để cãi cho mình, nhưng tôi hoảng hốt quá.
Ái chà! Mattia mới có lý làm sao! Lẽ ra tôi phải nghe nó!
Sáng hôm sau, một người cai ngục tới dẫn tôi vào phòng lớn của tòa án. Một làn gió nóng thổi vào mặt tôi, tôi nghe thấy tiếng rì rầm khó phân biệt. Liếc mắt một cái, tôi thấy ngay toàn cảnh rõ nét đang ở quanh tôi. Đó là phòng xử của tòa án, trong phòng đầy những người.
Phòng xử khá rộng, trần cao, cửa sổ lớn, chia ra hai khoảng ngăn cách với nhau, một dành cho tòa, phần kia mở ra công chúng. Trên một cái bục cao có quan tòa ngồi, trước mặt quan tòa ở vị trí thấp hơn là ba vị thẩm phán, còn trước cái đài ngồi của tôi là một nhân vật mặc áo dài đeo tóc giả: luật sư của tôi.
Làm sao mà tôi có được một luật sư nhỉ?
Do Mattia và Bob gửi đến chăng?
Những câu hỏi này chưa phải lúc để trả lời. Tôi có một luật sư, thế là đủ.
Trong một cái đài ngồi khác, tôi nhìn thấy Bob, hai anh bạn và nhiều người khác nữa mà tôi không quen. Còn trong một cái đài khác nữa là viên cảnh sát cùng một số người. Tôi hiểu đây là chỗ ngồi của những người làm chứng.
Nơi dành cho công chúng ngồi chật ních.
Tôi thấy Mattia, ánh mắt chúng tôi giao nhau. Bỗng chốc tôi thấy mình can đảm trở lại.
Một trong các thẩm phán lên tiếng, ông giải thích tóm lược tình hình câu chuyện:
Một vụ ăn cắp xảy ra ở nhà thờ Saint-Georges, kẻ cắp là một người đàn ông và một đứa bé, dùng thang leo vào nhà thờ qua một cửa sổ mà chúng đập vỡ kính ra, chúng mang theo một con chó để canh gác. Một người qua đường về muộn thấy.lạ vì có ánh sáng le lói trong nhà thờ. Ông ta lắng nghe thì có tiếng như tiếng vỡ. Ngay tức khắc, ông đánh thức người coi nhà thờ dậy. Người ta đến khá đông, nhưng con chó sủa lên. Thế là trong khi mọi người mở cửa, bọn kẻ cắp đã kịp có thời gian tẩu thoát qua cửa sổ, bỏ lại con chó. Trong khi bị cảnh sát Jerry dẫn đi, con chó này đã nhận ra chủ mình, chính là thằng bé ngồi trên cái ghế dài kia. Hiện giờ, cảnh sát đang truy lùng tên kẻ cắp thứ hai.
Sau một vài nhận xét chứng tỏ tôi phạm tội, ông thẩm phán ngừng lời, sau đó một giọng the thé cất lên:
- Im lặng!
Quan tòa không buồn nhìn về phía tôi mà như tự nói với chính mình, hỏi tôi tên tuổi, nghề nghiệp.
Tôi trả lời những câu hỏi của quan tòa, sau đó xin phép được nói bằng tiếng Pháp. Tôi giải thích mình không thể ở nhà thờ vào giờ đó được bởi vì lúc đó tôi ngủ nơi trường đua ngựa cùng với các bạn tôi.
- Vậy anh giải thích thế nào về sự có mặt của con chó của anh trong nhà thờ? Quan tòa hỏi, tỏ ra kém tin tưởng ở những lời khẳng định của tôi.
- Tôi không giải thích. Con chó không đi cùng với tôi. Buổi sáng tôi buộc nó vào một chiếc xe của chúng tôi.
Tôi không nói gì thêm vì sợ người ta dùng lời khai này làm bằng chứng buộc tội cha tôi.
Người ta cho gọi nhân chứng, chính là người giữ nhà thờ. Người này tuyên thệ trên quyển Thánh Kinh là sẽ nói sự thật, không vì ghét hoặc vì yêu. Đó là một con người nhân hậu, thấp lùn, trông cực kỳ oai vệ mặc dầu mặt thì đỏ, mũi thì xanh nhợt.
Ông ta bắt đầu kể lể dài dòng, nào là mình đang hoang mang và phẫn nộ như thế nào khi người ta đến đánh thức bảo là có kẻ trộm trong nhà thờ, nào là lúc đầu cứ tưởng mọi người đùa mình, nhưng ai lại đùa với những người có tính cách như ông bao giờ, cho nên ông hiểu là đã xảy ra một chuyện gì nghiêm trọng. Ông vội chạy tới, mở cửa nhà thờ ra, và thấy... một con chó ở trong đó.
Tôi không có gì để trả lời cho việc này, nhưng luật sư của tôi suốt từ đầu không nói gì bèn đứng dậy, lắc lắc bộ tóc giả, xốc lại chiếc áo dài trên vai và lên tiếng:.
- Tối qua ai đóng cửa nhà thờ? Ông ta hỏi.
- Tôi. Người gác nhà thờ trả lời.
- Ông có chắc không?
- Tôi làm gì là chắc chắn đã làm việc ấy.
- Được. Thế ông có chắc chắn đã khóa cả con chó ở trong nhà thờ không?
- Nếu con chó có ở trong nhà thờ thì tại sao tôi không trông thấy nó.
- Mắt ông có tốt không?
- Mắt tôi cũng như mắt mọi người.
- Cách đây sáu tháng, có phải ông đã đâm đầu vào bụng một con bê phơi mình treo ở trước cửa một cửa hàng bán thịt không?
- Tôi không thấy một câu hỏi như vậy có lợi gì khi đưa ra cho một người có tính cách như tôi. Người giữ nhà thờ kêu lên mặt hóa xanh ra.
- Xin ông hết lòng làm ơn trả lời câu hỏi này.
- Đúng là tôi có va vào một con bê treo một cách vô ý thức trước cửa một hàng thịt.
- Ông không trông thấy nó ư?
- Lúc ấy tôi đang bận tâm nghĩ tới chuyện khác.
- Khi ông đóng cửa nhà thờ có phải ông vừa ăn cơm tối xong không?
- Hẳn là thế rồi.
- Thế khi ông đâm đầu vào con bê ông chưa ăn cơm tối chứ?
- Rồi, nhưng...
- Trong khi ăn cơm tối ông uống mấy vại bia?
- Hai.
- Có khi nào uống nhiều hơn không?
- Đôi khi ba.
- Sau bữa cơm có uống một cốc rượu trắng pha chanh với đường nữa chứ?
- Thỉnh thoảng thôi.
- Mấy cốc?
Vì người giữ nhà thờ không trả lời, mặt càng ngày càng xanh, ông luật sư lại ngồi xuống, vừa ngồi vừa nói:
- Cuộc thẩm vấn này đủ tỏ ra rằng có thể con chó đã bị người làm chứng vừa rồi khóa trong nhà thờ từ trước. Ông này cứ sau bữa cơm.tối do bận lòng lo lắng cái gì đó nên không nhìn thấy cả những con bê nữa. Đó là tất cả những gì tôi muốn biết.
Giá mà dám, chắc là tôi đã ôm hôn ông luật sư.
Tôi thoát rồi!
Sau người giữ nhà thờ, người ta còn nghe nhiều người làm chứng khác, rồi nghe đến các bạn tôi.
Cuộc hỏi cung chấm dứt, quan tòa hỏi tôi có muốn nói thêm gì không.
Tôi trả lời là tôi vô tội, tôi xin phó thác mình vào công lý của tòa án.
Lúc đó, quan tòa cho đọc biên bản rồi tuyên bố tôi sẽ chuyển sang nhà tù của quận chờ đại bồi thẩm đoàn quyết định xem có bị gọi ra tòa đại hình hay không.
Tôi xỉu đi trên chiếc ghế dài.
Rất lâu sau khi vào lại nhà tù, tôi tìm ra lý do để giải thích cho mình vì sao không được tha:
quan tòa còn đợi bắt được những người vào trong nhà thờ đã, để xem tôi có đồng lõa với họ không.
Ông thẩm phán nói là người ta đang theo hút họ. Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ phải đau khổ và nhục nhã xuất hiện bên cạnh họ trên ghế của tòa đại hình.
Biết bao câu hỏi trong óc tôi làm cho thời gian trôi nhanh hơn tối qua.
Trước nửa đêm một chút, tôi nghe có tiếng kèn đẩy, tôi nhận ra cách chơi kèn của Mattia.
Tiếng kèn vẳng tới tai tôi qua bức tường trước mặt cái cửa sổ phòng giam tôi. Cùng với tiếng kèn có tiếng bước chân và tiếng rì rầm mơ hồ.
Tôi đến mở cửa sổ ra. Tôi mở vô cùng thận trọng tránh cho nó kêu lên. Cuối cùng, nhờ hết sức nhẹ nhàng tôi đạt được kết quả. Tôi đứng đó lắng tai nghe ngóng.
Bỗng nhiên có đầu ai thò lên trên bờ tường:
đó là đầu Bob. Anh ta lấy tay ra hiệu cho tôi đứng xa cửa sổ ra. Tôi nghe theo tuy không hiểu gì. Tay kia hình như Bob cầm một ống xì đồng, để lên miệng. Tôi nghe thấy một tiếng thổi, đồng thời trông thấy một cục tròn màu trắng bay vào rơi dưới chân tôi.
Ngay lập tức đầu Bob biến mất, tiếng kèn đẩy cũng im. Tôi không nghe thấy gì nữa.
Tôi đóng cửa sổ lại, vồ lấy cục giấy mở ra đọc:
"Tối mai, người ta đưa cậu đến nhà tù quận.
Cậu sẽ đi tàu và ở trong toa tàu cùng với một cảnh sát. Hãy ngồi gần cửa toa chỗ cậu bước lên. Khi chạy được độ bốn mươi nhăm phút (nhớ xem đồng hồ cho kỹ), tàu sẽ đi chậm lại vì có chỗ ngoặt. Lúc đó, hãy mở cánh cửa toa tàu ra và dũng cảm lao xuống. Khi lao xuống nhớ duỗi hai tay ra phía trước, sao cho rơi xuống trên hai chân. Liền ngay đó, cậu phải nhah chóng leo lên sườn dốc bên trái, bọn tớ sẽ ở đó cùng một cái xe và một con ngựa tốt. Đừng sợ gì cả. Hai ngày sau ta sẽ về đến Pháp. Can đảm lên!"
Thế là thoát rồi! Không phải xuất hiện trước tòa đại hình! Ôi! Những người bạn tốt!
Tuy nhiên, trong niềm vui bồng bột, tôi có một ý nghĩ buồn: Còn Capi?
Nhưng tôi nhanh chóng gạt bỏ ý nghĩ này. Không đời nào Mattia bỏ Capi. Nếu nó tìm được cách cho tôi vượt ngục, chắc hẳn nó cũng tìm được cách cho Capi trốn thoát.
Tôi đọc đi đọc lại mẩu giấy hai ba lần nữa rồi nhai nuốt nó đi.
Tôi ngủ yên ả.
Thời gian trôi khá nhanh và chiều hôm sau, một viên cảnh sát vào ngục bảo tôi đi theo ông ta.
Tôi hài lòng thấy đó là một người khoảng năm mươi tuổi, thân hình không có vẻ mềm mại lắm.
Vậy là mọi việc có thể diễn biến theo chỉ dẫn của Mattia.
Lúc tàu sắp chạy, tôi ngồi gần cửa toa tàu, viên cảnh sát ngồi trước mặt tôi. Chỉ có hai chúng tôi ở trong toa.
Tôi dựa vào cửa toa tàu mà cửa kính mở ra. Tôi xin phép viên cảnh sát được nhìn quang cảnh bên ngoài nơi chúng tôi đi qua. Viên cảnh sát đồng ý, ông ta sợ gì cơ chứ?
Tàu đang chạy nhanh. Bỗng nhiên không khí lạnh tạt vào mặt viên cảnh sát. Ông ta vội tránh xa cửa, vào ngồi ở giữa toa tàu. Tôi chẳng biết lạnh là gì, nhẹ nhàng thò tay trái ra ngoài mở nắm cửa sẵn, tay phải thì giữ lấy cánh cửa.
Sau bốn mươi lăm phút như Mattia đã dặn, đầu tàu rú còi và chạy chậm lại.
Đến lúc rồi.
Tôi nhanh nhẹn đẩy cánh cửa tàu và nhảy xuống xa nhất có thể.
Tôi rơi xuống một cái hố.
Cú sốc mạnh quá làm tôi lăn ra đất, ngất đi.
Khi tỉnh lại tôi cứ tưởng mình vẫn còn ở trong tàu vì thấy mình lắc lư, bồng bềnh. Rồi tôi nghe thấy tiếng bánh xe lăn và nhận ra mình nằm trên một lớp rơm. Má tôi, trán tôi có ai vuốt ve. Một cái vuốt ve mềm và ấm.
Tôi mở mắt.
Một con chó màu vàng nằm trên mình tôi và đang liếm cho tôi. Luồng mắt tôi gặp mắt Mattia đang quỳ bên cạnh tôi.
- Cậu thoát rồi. Nó vừa nói vừa gạt con chó ra, ôm lấy tôi.
- Chúng ta đang ở đâu thế này?
- Trên xe ngựa do Bob chở.
- Em thế nào rồi? Bob hỏi.
- Em cũng không biết nữa. Có lẽ tốt thôi, hình như thế.
- Cử động tay, cử động chân xem nào. Bob kêu.
Đang nằm thẳng trên nệm rơm, tôi làm như Bob bảo.
- Tốt rồi... Mattia nói... Không chỗ nào bị gãy cả.
- Nhưng mọi việc xảy ra thế nào nhỉ?
- Cậu nhảy tàu, chấn động làm cậu choáng váng. Cậu rơi vào một cái hố. Không thấy cậu đâu, Bob bèn chạy xuống sườn dốc tìm cậu trong khi tớ giữ cương ngựa. Chúng mình tưởng cậu đã chết cơ đấy. Sợ quá!
- Còn viên cảnh sát thì sao?
- Đi theo tàu. Tàu có dừng lại đâu.
Tôi đã biết những điều cơ bản.
Tôi nhìn quanh thấy một con chó vàng nhìn tôi âu yếm, đôi mắt dịu dàng.
- Còn Capi?... Tôi hỏi... Nó đâu?
Mattia chưa kịp trả lời thì con chó vàng nhảy lên người tôi vừa liếm tôi vừa rên ư ử.
- Nó đấy thôi!... Mattia nói... Bọn tớ nhuộm nó đi.
Tôi vuốt ve con Capi tốt bụng, rồi tôi hôn nó.
Bob quay lại phía chúng tôi và bảo Mattia:
- Em cầm cương ngựa một lát. Anh phải làm cho không ai nhận ra cái xe khi đến chỗ chắn đường nữa.
Đây là một cái xe phủ vải bạt trên những cái vòng. Sau khi tháo các vòng đai và gấp tấm vải bạt đặt vào trong xe, Bob bảo tôi lấy vải bạt phủ lên người và khuyên Mattia cũng ẩn mình dưới tấm vải. Làm như vậy cái xe hoàn toàn thay hình đổi dạng. Nếu người ta đuổi theo chúng tôi, các dấu hiệu mọi người kể lại sẽ làm mọi tìm kiếm bị lạc hướng.
- Ta đi đâu thế này? Tôi hỏi Mattia khi nó nằm dài bên cạnh tôi.
- Đi Littlehampton, một hải cảng nhỏ. Ở đấy, Bob có người anh ruột chỉ huy một cái tàu chuyên đi Pháp mua bơ và trứng ở Norman-die, Isigny. Nếu ta trốn thoát mà chắc chắn là.chúng ta sẽ trốn được, đó là nhờ ở Bob. Bob làm tất cả đấy, chứ còn tớ, thằng bé khốn khổ tội nghiệp, tớ làm gì được cho cậu đâu! Chính Bob nghĩ ra chuyện bảo cậu nhảy tàu, mượn bạn bè cái xe và con ngựa này. Rồi lại kiếm cho ta một cái tàu để mà về Pháp, bởi vì nếu cậu đi tàu chạy bằng hơi nước, cậu sẽ bị bắt ngay. Cậu xem đấy, có bạn bè tốt thật là sung sướng.
- Còn Capi, ai có ý định đem nó đi theo?
- Tớ, nhưng Bob là người quyết định nhuộm lông nó thành màu vàng để người ta không nhận ra nó nữa. Chúng mình ăn trộm nó từ viên cảnh sát Jerry. Con Capi cũng cảm thấy ở tớ có chuyện gì đó nên để tớ muốn làm gì thì làm. Hơn nữa Bob còn biết rõ tất cả mọi thuật của bọn ăn cắp chó.
- Còn chân cậu thế nào?
- Khỏi rồi, hoặc gần như khỏi. Tớ chẳng còn thì giờ nghĩ đến nó nữa.
Chúng tôi đi rất nhanh vì ngựa tốt, Bob đánh xe cũng giỏi. Tuy nhiên, chúng tôi phải dừng lại cho con ngựa thở một chút và cho nó ăn.
Bob dừng lại giữa rừng, tháo ngựa và đeo vào cổ nó một cái túi dết đựng đầy lúa mạch lấy trong xe.
Đêm tối như bưng, nguy cơ bị bắt lại là rất thấp.
Lúc đó, tôi quay sang nói chuyện với Bob, hết lòng cảm ơn anh vì những gì anh đã làm cho chúng tôi. Nhưng anh ngăn lại, không cho tôi nói hết những điều tôi cảm thấy.
- Bọn em đã giúp anh... Anh nói và bắt tay tôi... Giờ đến lượt anh. Hơn nữa, em gần như là anh ruột của Mattia rồi còn gì. Mà đối với một cậu bé tốt như Mattia thì người ta sẵn sàng làm cho nó mọi việc.
Tôi hỏi anh xem chúng tôi còn xa Little-hampton không. Anh trả lời còn phải đi hai giờ nữa và chúng tôi phải gấp lên vì tàu của ông anh cứ đến sáng sớm thứ bảy, lúc thủy triều lên, là đi Isigny. Mà hôm nay đã là thứ sáu rồi.
Chúng tôi lại lên nằm trên ổ rơm dưới tấm vải bạt, con ngựa đã được nghỉ ngơi giờ đi rất nhanh.
- Cậu có sợ không? Mattia hỏi tôi.
- Có và không. Tớ rất sợ bị bắt lại nhưng xem ra người ta không bắt lại tớ được. Chỉ có một điều cứ giày vò tớ, đó là đi trốn chẳng khác gì mình có tội. Sẽ bào chữa cho mình thế nào bây giờ?
- Bọn mình cũng đã nghĩ đến điều đó, nhưng Bob tin rằng phải làm tất cả để cậu khỏi phải.xuất hiện trên ghế của tòa đại hình. Phải ngồi đó thì phiền lắm, ngay cả được tha bổng cũng vậy. Tớ thì tớ không dám nói gì, bởi vì dù gì đi nữa cũng phải đưa cậu về Pháp, tớ sợ rằng ý định đó có thể khiến tớ khuyên cậu lầm chăng.
- Cậu làm thế là phải, và dù xảy ra cái gì chăng nữa thì tớ cũng chỉ có thể cảm ơn cậu và anh Bob mà thôi.
- Sẽ không xảy ra cái gì đâu, cậu yên tâm đi. Khi tàu hỏa đến ga, viên cảnh sát của cậu sẽ phải báo cáo chuyện cậu bỏ trốn, nhưng trước khi tổ chức xong việc truy tìm cậu thì đã mất khối thì giờ rồi. Mà ta thì lại đang phi nước đại. Hơn nữa họ đâu biết ta xuống tàu ở Littlehampton mà theo.
Chắc chắn là, nếu họ không theo hút chúng tôi, chúng tôi sẽ có cơ may xuống tàu không lo gì cả, nhưng tôi không yên tâm bằng Mattia.
Trong khi đó con ngựa của chúng tôi, được Bob điều khiển một cách mạnh mẽ, vẫn tiếp tục chạy trốn rất nhanh trên con đường vắng vẻ. Chỉ thỉnh thoảng chúng tôi mới bắt gặp một vài chiếc xe khác. Những ngôi làng chúng tôi đi qua đều im ắng, lâu lâu mới có một cửa sổ còn sáng đèn muộn. Chỉ có vài con chó chú ý đến xe chúng tôi đang chạy nhanh nên sủa theo mà thôi.
Sau khi leo một đoạn đường dốc đứng, Bob dừng ngựa lại cho nó thở. Chúng tôi xuống xe, dán tai xuống đất nghe ngóng, nhưng ngay cả Mattia, tai thính hơn chúng tôi, cũng không nghe thấy tiếng động nào khả nghi.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình trong bóng tối và tĩnh lặng của đêm trường.
Bây giờ không phải chúng tôi nằm dưới tấm vải bạt để trốn nữa mà là để tránh những cơn gió lạnh.
Rồi một lúc sau, chúng tôi chợt cảm nhận thấy vị mặn của muối ở đầu lưỡi.
Đã gần đến biển.
Chẳng mấy chốc, chúng tôi nhìn thấy một luồng ánh sáng cứ từng khoảng cách đều đặn biến đi, rồi lại hiện ra rực rỡ.
Đó là chiếc đèn pha của một con tàu.
Chúng tôi đã đến nơi.
Bob dừng ngựa, đưa nó đi thong thả nhẹ nhàng vào một con đường ngang. Rồi anh xuống xe, bảo chúng tôi cứ ở yên đó, giữ lấy ngựa. Anh đi xem anh của mình đã khởi hành chưa và liệu chúng tôi xuống thuyền có nguy hiểm không.
Tôi thú thật là thời gian Bob vắng mặt đối với tôi sao mà lâu quá. Chúng tôi không ai nói gì, chỉ nghe sóng biển đập vào bờ cát sỏi ở gần đâu đấy với tiếng động đều đều càng làm tăng nỗi xúc động của chúng tôi. Mattia run bắn lên, tôi cũng vậy.
Cuối cùng, chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân ở con đường lúc nãy Bob đi.
Chính là Bob trở lại.
Anh không đi một mình. Khi anh tới gần, chúng tôi trông thấy một người đi cùng với anh. Đó là một người đàn ông mặc chiếc áo va-rơi bằng vải dầu và đội một cái mũ len.
- Đây là anh trai của anh... Bob nói... Anh ấy sẵn lòng nhận các em lên tàu. Ta chia tay nhau ở đây thôi. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong những hoàn cảnh tốt đẹp hơn, anh hứa với các em như thế.
Anh không nói thêm lời nào nữa và ôm hôn từng đứa chúng tôi, rất xúc động. Họng chúng tôi nghẹn lại không biết nói gì.
Bob ra đi không một tiếng động trong đêm tối.
Chúng tôi đi theo anh trai của Bob, và chẳng bao lâu đã đi vào những con phố tĩnh mịch của thành phố. Rồi sau vài khúc ngoặt, bến cảng đã hiện ra trước mặt.
Anh của Bob chỉ con tàu của mình cho chúng tôi, không nói gì.
Sau khi xuống tàu, anh đưa chúng tôi vào một ca-bin nhỏ.
- Hai tiếng nữa anh mới khởi hành... Anh nói... Bọn em đừng gây tiếng động nhé.
Khi anh đã khóa cửa ca-bin, Mattia sà vào vòng tay tôi không một tiếng động, ôm hôn tôi.
Nó không run nữa.
Họ đang ở đâu? Chúng tôi biết tìm họ ở đâu?
Chuyến viếng thăm của ông James Milligan làm chúng tôi nảy ra một ý nghĩ và đưa ra một kế hoạch mà kết quả xem ra là chắc chắn. Vì James Milligan đã đến nhà cha mẹ tôi một lần thế nào ông ta chẳng đến nữa? Chắc ông ta có làm ăn gì đó với cha tôi. Vậy thì khi nào ông ta ra về, Mattia sẽ đi theo; biết chỗ ở của ông ta rồi sẽ lân la hỏi chuyện bọn đầy tớ, từ những tin tức này có thể đến được chỗ Arthur.
Đã đến lúc mà, đáng lẽ phải đi chơi đàn trong các phố vào ban ngày chúng tôi lại đi vào ban đêm bởi vì đúng vào nửa đêm mới là những buổi hòa nhạc Giáng sinh. Như vậy ban ngày ở nhà, một trong hai đứa chúng tôi sẽ canh gác, thế nào chẳng có lúc chộp được ông chú Arthur.
Một hôm, trong khi đi dạo phố phường, tôi thấy một người giả da đen mặc quần áo lố lăng có đuôi chim làm hiệu cho Mattia. Lúc đầu tôi cứ tưởng một trò hề để làm vui công chúng mà chúng tôi là nạn nhân, nhưng thật ngạc nhiên Mattia thân mật đáp lại.
- Cậu quen anh ta à? Tôi hỏi Mattia.
- Đó là Bob, bạn tớ hồi tớ làm ở rạp xiếc Gassot. Chính anh ấy đã dạy tớ tiếng Anh đấy.
Sau khi trình diễn xong những bản nhạc du dương của người da đen, Bob đến chỗ chúng tôi. Và cứ xem cái cách anh ta lại gần Mattia, tôi hiểu được người bạn đường của tôi đã được mọi người yêu quý như thế nào. Đến một người anh ruột cũng không có được niềm vui trong ánh mắt, trong giọng nói như của anh hề da đen này, người mà "qua cái nghiệt ngã của thời gian buộc phải trở thành ca sĩ hát rong" như anh ta bảo chúng tôi. Nhưng chúng tôi phải mau chóng chia tay để anh ta còn đi theo đoàn, chúng tôi thì về nhà. Hai người bạn đành phải để tới chủ nhật sau mới có dịp vui sướng kể nhau nghe đã từng làm gì từ khi xa cách. Có lẽ vì tình bạn với Mattia nên Bob rất muốn tỏ thiện cảm với tôi, thế là chẳng.bao lâu chúng tôi có một người bạn chân tình mà nhờ kinh nghiệm và những lời khuyên của anh, cuộc sống ở Londres đối với chúng tôi dễ chịu hơn suốt từ hồi nào cho tới lúc này.
Cứ như thế chúng tôi đến gần lễ Giáng sinh. Lẽ ra phải đi biểu diễn buổi sáng thì chúng tôi lên đường mỗi buổi tối, vào lúc tám hoặc chín giờ, để tới những khu mà chúng tôi đã chọn sẵn.
Nhưng những ngày lễ Giáng sinh đã qua rồi mà James Milligan vẫn chưa xuất hiện. Sau Giáng sinh lại phải ra đi ban ngày chẳng còn mấy cơ hội trông thấy hắn ta nữa.
Không nói là chúng tôi đang bận tâm vì cái gì, Mattia cởi mở tâm tình với anh bạn Bob của chúng tôi, hỏi anh xem có thể tìm được địa chỉ một bà tên là Milligan hoặc một ông tên là James Milligan không. Nhưng Bob trả lời phải biết địa vị xã hội của họ hoặc nghề nghiệp của họ thì mới được. Ở Londres nhất là trong cả nước Anh có biết bao người tên là Milligan.
Chúng tôi không nghĩ tới chuyện này nữa.
Mattia có ý kiến như sau: nó muốn chúng tôi quay về Pháp. Nó nói, ở đó chúng tôi có nhiều cơ hội gặp lại Arthur và bà Milligan hơn. Lúc nào nó cũng nói đi nói lại ý nghĩ đó, nhưng tôi muốn trung thực với gia đình tôi nên từ chối không chịu trốn. Mattia khẳng định rằng gặp được bà Milligan tôi sẽ gặp gia đình đích thực của tôi. Nó nói thế với vẻ rất lạ nhưng không nói thêm gì.
Thời gian cứ chậm chạp trôi đi, đã tới lúc gia đình tôi từ bỏ Londres để đi khắp nước Anh.
Hai chiếc xe lưu động đã được sơn lại, chất đầy ắp những hàng hóa mà chúng có thể chứa nổi, hàng hóa thì người ta lôi ra từ hầm bí mật trong nhà xe.
Cuối cùng mọi thứ đã sẵn sàng để ra đi. Tối hôm trước, cha tôi đã báo cho chúng tôi biết là chúng tôi sẽ đi theo họ, nhưng vẫn làm nghề chơi đàn.
Chúng tôi lại đi trên những con đường lớn.
Chúng tôi cứ theo sau hai cái xe, qua vùng đồng quê tươi đẹp thở không khí trong lành. Mỗi khi tới một ngôi làng lớn, họ đưa xe ra một chỗ rộng, hạ một bên thành xe xuống bày hàng ra trước sự tò mò của người mua.
- Hãy xem giá cả này! Xem giá cả này!... Cha tôi la lên... Không ở đâu rẻ như thế.
Tôi nghe thấy tiếng người mua xem hỏi giá rồi bỏ đi:
- Chỉ có là đồ ăn cắp mới rẻ thế.
Giá họ đưa mắt về phía tôi hẳn họ chẳng phải nghi ngờ gì nữa khi thấy mặt tôi đỏ lên.
Nếu như họ không thấy tôi bối rối thì Mattia thấy được điều này. Buổi tối nó bảo tôi:
- Việc gì cậu cứ phải chịu đựng mãi nỗi hổ thẹn này nhỉ, Rémi? Chẳng lẽ cậu nghĩ cảnh sát để yên không hỏi xem tại sao ông Driscoll bán hàng với giá rẻ thế? Tất cả chúng ta đều có thể bị bắt. Làm sao chứng minh được là ta không làm gì? Bào chữa cho mình thế nào? Ta hãy xem có cơ hội nào là lập tức chuồn ngay. Tớ có linh cảm sắp xảy ra tai họa đến nơi. Xin cậu, Rémi, ta hãy quay lại Pháp đi!
- Cho tớ vài ngày nữa, rồi chúng ta sẽ xem.
- Mau mau lên! Tớ cảm thấy nguy hiểm chẳng khác gì con yêu tinh ngửi thấy mùi thịt tươi.
Chưa bao giờ những lời nói, lời cầu khẩn của Mattia làm cho tôi bối rối đến như thế. Mỗi khi nhớ lại những lời đó, tôi lại tự bảo mình là sự do dự khiến tôi trăn trở thật là hèn, tôi phải quyết định một bề thôi.
Hoàn cảnh đã làm những gì mà tôi không dám làm.
Một hôm, cha tôi đến đóng đô ở một thành phố, cho rằng ở đó làm ăn được. Tới nơi sớm, lại không phải bày hàng nên tôi và Mattia đi xem trường đua ngựa ở cách thành phố khá xa.
Nhiều căn lều được dựng lên, từ xa đã có thể nhìn thấy những cột khói nhỏ đánh dấu giới hạn trường đua. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đổ ra một con đường trũng xuống nơi đất truông mọi khi cằn cỗi trơ trụi chiều thì nay đầy lán hàng dựng bằng ván gỗ trong đó có các quán rượu, xe cộ hoặc đơn giản là những trại đóng quân ngoài trời. Qua trước một ngọn lửa, chúng tôi gặp bạn chúng tôi, anh Bob. Thấy chúng tôi anh vui lắm. Anh ở đó cùng các bạn anh để tổ chức biểu diễn sức mạnh và sự khéo léo, nhưng mấy nhạc công họ trông chờ lại lỡ hẹn, thành ra mọi chuyện có nguy cơ hỏng bét. Mattia nói với Bob, nếu muốn, chúng tôi có thể giúp anh ta về khâu này. Tiền thu được sẽ chia ra làm năm, lại có cả một phần cho Capi.
Vì chúng tôi tự do muốn làm gì thì làm tùy thích, nên chỉ với điều kiện đem lại thu nhập khá thì chúng tôi nhận lời ngay.
Nhưng khi về nhà thông báo cho cha tôi biết việc thu xếp này, bỗng nảy ra một khó khăn.
- Ngày mai cha cần Capi. Ông bảo tôi.
Họ lại cần Capi cho một công việc bẩn thỉu nào chăng?
Nhưng cha tôi làm tiêu tan nỗi lo ngại của tôi ngay tức khắc:
- Capi tai thính, cái gì nó cũng nghe thấy, canh gác rất tốt. Chúng ta cần nó để giữ xe. Đông thế này, họ có thể lấy cắp hàng của chúng ta. Chỉ hai đứa đi chơi đàn với Bob thôi. Nếu công việc kéo dài thâu đêm, mà có thể như vậy lắm, thì các con tìm chúng ta ở quán Cây Sồi Lớn, bọn ta ngủ ở đó.
Sáng hôm sau, sau khi săn sóc Capi cẩn thận không để nó thiếu thốn cái gì, chính tay tôi buộc nó vào trục chiếc xe mà nó có nhiệm vụ canh gác.
Rồi chúng tôi đi đến trường đua.
Vừa đến nơi, chúng tôi bắt đầu chơi đàn ngay, và chơi không nghỉ cho đến tận chiều tối. Các đầu ngón tay tôi đau buốt như bị hàng ngàn cái gai đâm vào, còn Mattia thổi kèn đẩy đến hụt hơi thở không nổi nữa. Tuy nhiên Bob và các bạn anh vẫn không thôi biểu diễn các tiết mục.
Tối đến, tôi tưởng đã đến lúc chúng tôi được nghỉ ngơi, hóa ra lại phải chuyển sang một tiệm rượu lớn để diễn. Rồi các tiết mục nhào lộn và âm nhạc lại tiếp diễn hăng hái hơn bao giờ hết.
Cứ như thế cho tới nửa đêm.
Tôi không còn biết mình đang chơi bản nhạc gì. Mattia cũng chẳng hơn gì tôi. Các bạn tôi cũng mệt rã rời, làm hỏng một trò diễn. Đến một lúc, cái sào lớn phục vụ biểu diễn rơi ngay xuống trúng đầu ngón chân Mattia, đau đến nỗi nó kêu lên một tiếng, thịt rách ra. Tuy xương không bị gãy, nhưng Mattia không đi được nữa.
Thế là mọi người quyết định: tôi và Mattia ngủ lại trong xe của Bob, sáng mai hẵng trở về quán.
Ngủ chỉ được vài tiếng đồng hồ nhưng cũng đủ làm tôi lại sức.
Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy chuẩn bị ra về nếu như Mattia, lúc ấy còn đang ngủ, có thể đi theo tôi. Ra khỏi xe, tôi đi lại phía Bob đang nhóm lửa. Mặc dù chăm chú xem anh ta đang dùng hết sức lực thổi phù phù dưới cái nồi, nhưng tôi dường như thoáng nhận ra con Capi đang bị một cảnh sát dẫn đi.
Giật mình, tôi đứng lặng người tự hỏi thế nghĩa là thế nào. Chưa kịp phản ứng gì thì Capi đã nhận ra tôi. Nó liền giật thật mạnh khỏi dây buộc, thoát khỏi tay.người cảnh sát, chạy thật nhanh tới chỗ tôi và lao vào vòng tay tôi.
Viên cảnh sát bước tới, hỏi:
- Có phải con chó này của anh không?
- Vâng.
- Thế thì tôi bắt anh.
Và anh ta nắm lấy cánh tay tôi.
Bob đứng lên:
- Tại sao anh giữ thằng bé này? Bob hỏi.
- Anh là anh nó à?
- Không, là bạn.
- Đêm qua có một người đàn ông và một thằng bé chui vào nhà thờ Saint-Georges qua một chiếc cửa sổ ở trên cao bằng một cái thang, có cả con chó này đi theo để canh gác nếu có ai làm phiền họ. Đúng là có người đến thật.
Họ nhanh chóng bỏ trốn không kịp mang theo con chó. Nhờ con chó này chắc chắn tôi sẽ tóm được kẻ gian. Thế là tóm được một rồi. Cha anh đâu?
Tôi hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra: không phải người ta hỏi mượn tôi Capi để giữ xe mà để thông báo cho bọn ăn cắp trong nhà thờ biết có người đến. Tôi phải tự mình bào chữa cho mình thôi.
Mattia bị cuộc nói chuyện giữa chúng tôi làm thức giấc, ra khỏi xe.
- Anh hãy giải thích cho họ biết làm sao em có thể phạm tội được vì suốt đêm em ở đây với các anh cơ mà.
Bob dịch lời tôi nói cho viên cảnh sát nghe nhưng ông ta không tin như là tôi hy vọng.
- Cái gì chứng tỏ điều đó là thực? Viên cảnh sát nói.
- Tôi thề như thế chứ còn sao nữa! Bob kêu lên.
- Ồ! Anh ấy à, anh mà làm chứng thì còn phải xem lại đã.
- Này anh đừng có mà lăng nhục tôi... Bob nói một cách tự trọng... Tôi là công dân Anh đấy nhé!
- Trong khi chờ đợi, tôi hãy cứ đưa thằng bé này đi đã. Nó sẽ giải thích với ông thẩm phán sau. Tôi giữ cả con chó, nó sẽ giúp tôi tìm thấy mấy kẻ kia.
Nhà tù mà họ giam tôi không phải để đùa như cái nhà tù ở trong chất đầy hành mà tôi và Mattia bị giam lúc trước. Đây là một nhà tù thực sự, cửa sổ có chấn song lớn bằng sắt mà chỉ nhìn thấy thôi đã tiêu tan ngay mọi ý định vượt ngục. Toàn bộ đồ đạc chỉ có một ghế dài và một cái võng.
Tôi ngả người xuống chiếc ghế và suy nghĩ rất lung về hoàn cảnh đáng buồn của mình.
Tối hôm qua mệt như thế, nhưng do lo lắng quá tôi không sao ngủ được. Tôi cũng không buồn đả động gì đến thức ăn mà người ta mang cho tôi.
Ngược lại, tôi vồ lấy nước mà uống, tôi khát đến cháy họng.
Tôi muốn chuẩn bị các câu trả lời để cãi cho mình, nhưng tôi hoảng hốt quá.
Ái chà! Mattia mới có lý làm sao! Lẽ ra tôi phải nghe nó!
Sáng hôm sau, một người cai ngục tới dẫn tôi vào phòng lớn của tòa án. Một làn gió nóng thổi vào mặt tôi, tôi nghe thấy tiếng rì rầm khó phân biệt. Liếc mắt một cái, tôi thấy ngay toàn cảnh rõ nét đang ở quanh tôi. Đó là phòng xử của tòa án, trong phòng đầy những người.
Phòng xử khá rộng, trần cao, cửa sổ lớn, chia ra hai khoảng ngăn cách với nhau, một dành cho tòa, phần kia mở ra công chúng. Trên một cái bục cao có quan tòa ngồi, trước mặt quan tòa ở vị trí thấp hơn là ba vị thẩm phán, còn trước cái đài ngồi của tôi là một nhân vật mặc áo dài đeo tóc giả: luật sư của tôi.
Làm sao mà tôi có được một luật sư nhỉ?
Do Mattia và Bob gửi đến chăng?
Những câu hỏi này chưa phải lúc để trả lời. Tôi có một luật sư, thế là đủ.
Trong một cái đài ngồi khác, tôi nhìn thấy Bob, hai anh bạn và nhiều người khác nữa mà tôi không quen. Còn trong một cái đài khác nữa là viên cảnh sát cùng một số người. Tôi hiểu đây là chỗ ngồi của những người làm chứng.
Nơi dành cho công chúng ngồi chật ních.
Tôi thấy Mattia, ánh mắt chúng tôi giao nhau. Bỗng chốc tôi thấy mình can đảm trở lại.
Một trong các thẩm phán lên tiếng, ông giải thích tóm lược tình hình câu chuyện:
Một vụ ăn cắp xảy ra ở nhà thờ Saint-Georges, kẻ cắp là một người đàn ông và một đứa bé, dùng thang leo vào nhà thờ qua một cửa sổ mà chúng đập vỡ kính ra, chúng mang theo một con chó để canh gác. Một người qua đường về muộn thấy.lạ vì có ánh sáng le lói trong nhà thờ. Ông ta lắng nghe thì có tiếng như tiếng vỡ. Ngay tức khắc, ông đánh thức người coi nhà thờ dậy. Người ta đến khá đông, nhưng con chó sủa lên. Thế là trong khi mọi người mở cửa, bọn kẻ cắp đã kịp có thời gian tẩu thoát qua cửa sổ, bỏ lại con chó. Trong khi bị cảnh sát Jerry dẫn đi, con chó này đã nhận ra chủ mình, chính là thằng bé ngồi trên cái ghế dài kia. Hiện giờ, cảnh sát đang truy lùng tên kẻ cắp thứ hai.
Sau một vài nhận xét chứng tỏ tôi phạm tội, ông thẩm phán ngừng lời, sau đó một giọng the thé cất lên:
- Im lặng!
Quan tòa không buồn nhìn về phía tôi mà như tự nói với chính mình, hỏi tôi tên tuổi, nghề nghiệp.
Tôi trả lời những câu hỏi của quan tòa, sau đó xin phép được nói bằng tiếng Pháp. Tôi giải thích mình không thể ở nhà thờ vào giờ đó được bởi vì lúc đó tôi ngủ nơi trường đua ngựa cùng với các bạn tôi.
- Vậy anh giải thích thế nào về sự có mặt của con chó của anh trong nhà thờ? Quan tòa hỏi, tỏ ra kém tin tưởng ở những lời khẳng định của tôi.
- Tôi không giải thích. Con chó không đi cùng với tôi. Buổi sáng tôi buộc nó vào một chiếc xe của chúng tôi.
Tôi không nói gì thêm vì sợ người ta dùng lời khai này làm bằng chứng buộc tội cha tôi.
Người ta cho gọi nhân chứng, chính là người giữ nhà thờ. Người này tuyên thệ trên quyển Thánh Kinh là sẽ nói sự thật, không vì ghét hoặc vì yêu. Đó là một con người nhân hậu, thấp lùn, trông cực kỳ oai vệ mặc dầu mặt thì đỏ, mũi thì xanh nhợt.
Ông ta bắt đầu kể lể dài dòng, nào là mình đang hoang mang và phẫn nộ như thế nào khi người ta đến đánh thức bảo là có kẻ trộm trong nhà thờ, nào là lúc đầu cứ tưởng mọi người đùa mình, nhưng ai lại đùa với những người có tính cách như ông bao giờ, cho nên ông hiểu là đã xảy ra một chuyện gì nghiêm trọng. Ông vội chạy tới, mở cửa nhà thờ ra, và thấy... một con chó ở trong đó.
Tôi không có gì để trả lời cho việc này, nhưng luật sư của tôi suốt từ đầu không nói gì bèn đứng dậy, lắc lắc bộ tóc giả, xốc lại chiếc áo dài trên vai và lên tiếng:.
- Tối qua ai đóng cửa nhà thờ? Ông ta hỏi.
- Tôi. Người gác nhà thờ trả lời.
- Ông có chắc không?
- Tôi làm gì là chắc chắn đã làm việc ấy.
- Được. Thế ông có chắc chắn đã khóa cả con chó ở trong nhà thờ không?
- Nếu con chó có ở trong nhà thờ thì tại sao tôi không trông thấy nó.
- Mắt ông có tốt không?
- Mắt tôi cũng như mắt mọi người.
- Cách đây sáu tháng, có phải ông đã đâm đầu vào bụng một con bê phơi mình treo ở trước cửa một cửa hàng bán thịt không?
- Tôi không thấy một câu hỏi như vậy có lợi gì khi đưa ra cho một người có tính cách như tôi. Người giữ nhà thờ kêu lên mặt hóa xanh ra.
- Xin ông hết lòng làm ơn trả lời câu hỏi này.
- Đúng là tôi có va vào một con bê treo một cách vô ý thức trước cửa một hàng thịt.
- Ông không trông thấy nó ư?
- Lúc ấy tôi đang bận tâm nghĩ tới chuyện khác.
- Khi ông đóng cửa nhà thờ có phải ông vừa ăn cơm tối xong không?
- Hẳn là thế rồi.
- Thế khi ông đâm đầu vào con bê ông chưa ăn cơm tối chứ?
- Rồi, nhưng...
- Trong khi ăn cơm tối ông uống mấy vại bia?
- Hai.
- Có khi nào uống nhiều hơn không?
- Đôi khi ba.
- Sau bữa cơm có uống một cốc rượu trắng pha chanh với đường nữa chứ?
- Thỉnh thoảng thôi.
- Mấy cốc?
Vì người giữ nhà thờ không trả lời, mặt càng ngày càng xanh, ông luật sư lại ngồi xuống, vừa ngồi vừa nói:
- Cuộc thẩm vấn này đủ tỏ ra rằng có thể con chó đã bị người làm chứng vừa rồi khóa trong nhà thờ từ trước. Ông này cứ sau bữa cơm.tối do bận lòng lo lắng cái gì đó nên không nhìn thấy cả những con bê nữa. Đó là tất cả những gì tôi muốn biết.
Giá mà dám, chắc là tôi đã ôm hôn ông luật sư.
Tôi thoát rồi!
Sau người giữ nhà thờ, người ta còn nghe nhiều người làm chứng khác, rồi nghe đến các bạn tôi.
Cuộc hỏi cung chấm dứt, quan tòa hỏi tôi có muốn nói thêm gì không.
Tôi trả lời là tôi vô tội, tôi xin phó thác mình vào công lý của tòa án.
Lúc đó, quan tòa cho đọc biên bản rồi tuyên bố tôi sẽ chuyển sang nhà tù của quận chờ đại bồi thẩm đoàn quyết định xem có bị gọi ra tòa đại hình hay không.
Tôi xỉu đi trên chiếc ghế dài.
Rất lâu sau khi vào lại nhà tù, tôi tìm ra lý do để giải thích cho mình vì sao không được tha:
quan tòa còn đợi bắt được những người vào trong nhà thờ đã, để xem tôi có đồng lõa với họ không.
Ông thẩm phán nói là người ta đang theo hút họ. Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ phải đau khổ và nhục nhã xuất hiện bên cạnh họ trên ghế của tòa đại hình.
Biết bao câu hỏi trong óc tôi làm cho thời gian trôi nhanh hơn tối qua.
Trước nửa đêm một chút, tôi nghe có tiếng kèn đẩy, tôi nhận ra cách chơi kèn của Mattia.
Tiếng kèn vẳng tới tai tôi qua bức tường trước mặt cái cửa sổ phòng giam tôi. Cùng với tiếng kèn có tiếng bước chân và tiếng rì rầm mơ hồ.
Tôi đến mở cửa sổ ra. Tôi mở vô cùng thận trọng tránh cho nó kêu lên. Cuối cùng, nhờ hết sức nhẹ nhàng tôi đạt được kết quả. Tôi đứng đó lắng tai nghe ngóng.
Bỗng nhiên có đầu ai thò lên trên bờ tường:
đó là đầu Bob. Anh ta lấy tay ra hiệu cho tôi đứng xa cửa sổ ra. Tôi nghe theo tuy không hiểu gì. Tay kia hình như Bob cầm một ống xì đồng, để lên miệng. Tôi nghe thấy một tiếng thổi, đồng thời trông thấy một cục tròn màu trắng bay vào rơi dưới chân tôi.
Ngay lập tức đầu Bob biến mất, tiếng kèn đẩy cũng im. Tôi không nghe thấy gì nữa.
Tôi đóng cửa sổ lại, vồ lấy cục giấy mở ra đọc:
"Tối mai, người ta đưa cậu đến nhà tù quận.
Cậu sẽ đi tàu và ở trong toa tàu cùng với một cảnh sát. Hãy ngồi gần cửa toa chỗ cậu bước lên. Khi chạy được độ bốn mươi nhăm phút (nhớ xem đồng hồ cho kỹ), tàu sẽ đi chậm lại vì có chỗ ngoặt. Lúc đó, hãy mở cánh cửa toa tàu ra và dũng cảm lao xuống. Khi lao xuống nhớ duỗi hai tay ra phía trước, sao cho rơi xuống trên hai chân. Liền ngay đó, cậu phải nhah chóng leo lên sườn dốc bên trái, bọn tớ sẽ ở đó cùng một cái xe và một con ngựa tốt. Đừng sợ gì cả. Hai ngày sau ta sẽ về đến Pháp. Can đảm lên!"
Thế là thoát rồi! Không phải xuất hiện trước tòa đại hình! Ôi! Những người bạn tốt!
Tuy nhiên, trong niềm vui bồng bột, tôi có một ý nghĩ buồn: Còn Capi?
Nhưng tôi nhanh chóng gạt bỏ ý nghĩ này. Không đời nào Mattia bỏ Capi. Nếu nó tìm được cách cho tôi vượt ngục, chắc hẳn nó cũng tìm được cách cho Capi trốn thoát.
Tôi đọc đi đọc lại mẩu giấy hai ba lần nữa rồi nhai nuốt nó đi.
Tôi ngủ yên ả.
Thời gian trôi khá nhanh và chiều hôm sau, một viên cảnh sát vào ngục bảo tôi đi theo ông ta.
Tôi hài lòng thấy đó là một người khoảng năm mươi tuổi, thân hình không có vẻ mềm mại lắm.
Vậy là mọi việc có thể diễn biến theo chỉ dẫn của Mattia.
Lúc tàu sắp chạy, tôi ngồi gần cửa toa tàu, viên cảnh sát ngồi trước mặt tôi. Chỉ có hai chúng tôi ở trong toa.
Tôi dựa vào cửa toa tàu mà cửa kính mở ra. Tôi xin phép viên cảnh sát được nhìn quang cảnh bên ngoài nơi chúng tôi đi qua. Viên cảnh sát đồng ý, ông ta sợ gì cơ chứ?
Tàu đang chạy nhanh. Bỗng nhiên không khí lạnh tạt vào mặt viên cảnh sát. Ông ta vội tránh xa cửa, vào ngồi ở giữa toa tàu. Tôi chẳng biết lạnh là gì, nhẹ nhàng thò tay trái ra ngoài mở nắm cửa sẵn, tay phải thì giữ lấy cánh cửa.
Sau bốn mươi lăm phút như Mattia đã dặn, đầu tàu rú còi và chạy chậm lại.
Đến lúc rồi.
Tôi nhanh nhẹn đẩy cánh cửa tàu và nhảy xuống xa nhất có thể.
Tôi rơi xuống một cái hố.
Cú sốc mạnh quá làm tôi lăn ra đất, ngất đi.
Khi tỉnh lại tôi cứ tưởng mình vẫn còn ở trong tàu vì thấy mình lắc lư, bồng bềnh. Rồi tôi nghe thấy tiếng bánh xe lăn và nhận ra mình nằm trên một lớp rơm. Má tôi, trán tôi có ai vuốt ve. Một cái vuốt ve mềm và ấm.
Tôi mở mắt.
Một con chó màu vàng nằm trên mình tôi và đang liếm cho tôi. Luồng mắt tôi gặp mắt Mattia đang quỳ bên cạnh tôi.
- Cậu thoát rồi. Nó vừa nói vừa gạt con chó ra, ôm lấy tôi.
- Chúng ta đang ở đâu thế này?
- Trên xe ngựa do Bob chở.
- Em thế nào rồi? Bob hỏi.
- Em cũng không biết nữa. Có lẽ tốt thôi, hình như thế.
- Cử động tay, cử động chân xem nào. Bob kêu.
Đang nằm thẳng trên nệm rơm, tôi làm như Bob bảo.
- Tốt rồi... Mattia nói... Không chỗ nào bị gãy cả.
- Nhưng mọi việc xảy ra thế nào nhỉ?
- Cậu nhảy tàu, chấn động làm cậu choáng váng. Cậu rơi vào một cái hố. Không thấy cậu đâu, Bob bèn chạy xuống sườn dốc tìm cậu trong khi tớ giữ cương ngựa. Chúng mình tưởng cậu đã chết cơ đấy. Sợ quá!
- Còn viên cảnh sát thì sao?
- Đi theo tàu. Tàu có dừng lại đâu.
Tôi đã biết những điều cơ bản.
Tôi nhìn quanh thấy một con chó vàng nhìn tôi âu yếm, đôi mắt dịu dàng.
- Còn Capi?... Tôi hỏi... Nó đâu?
Mattia chưa kịp trả lời thì con chó vàng nhảy lên người tôi vừa liếm tôi vừa rên ư ử.
- Nó đấy thôi!... Mattia nói... Bọn tớ nhuộm nó đi.
Tôi vuốt ve con Capi tốt bụng, rồi tôi hôn nó.
Bob quay lại phía chúng tôi và bảo Mattia:
- Em cầm cương ngựa một lát. Anh phải làm cho không ai nhận ra cái xe khi đến chỗ chắn đường nữa.
Đây là một cái xe phủ vải bạt trên những cái vòng. Sau khi tháo các vòng đai và gấp tấm vải bạt đặt vào trong xe, Bob bảo tôi lấy vải bạt phủ lên người và khuyên Mattia cũng ẩn mình dưới tấm vải. Làm như vậy cái xe hoàn toàn thay hình đổi dạng. Nếu người ta đuổi theo chúng tôi, các dấu hiệu mọi người kể lại sẽ làm mọi tìm kiếm bị lạc hướng.
- Ta đi đâu thế này? Tôi hỏi Mattia khi nó nằm dài bên cạnh tôi.
- Đi Littlehampton, một hải cảng nhỏ. Ở đấy, Bob có người anh ruột chỉ huy một cái tàu chuyên đi Pháp mua bơ và trứng ở Norman-die, Isigny. Nếu ta trốn thoát mà chắc chắn là.chúng ta sẽ trốn được, đó là nhờ ở Bob. Bob làm tất cả đấy, chứ còn tớ, thằng bé khốn khổ tội nghiệp, tớ làm gì được cho cậu đâu! Chính Bob nghĩ ra chuyện bảo cậu nhảy tàu, mượn bạn bè cái xe và con ngựa này. Rồi lại kiếm cho ta một cái tàu để mà về Pháp, bởi vì nếu cậu đi tàu chạy bằng hơi nước, cậu sẽ bị bắt ngay. Cậu xem đấy, có bạn bè tốt thật là sung sướng.
- Còn Capi, ai có ý định đem nó đi theo?
- Tớ, nhưng Bob là người quyết định nhuộm lông nó thành màu vàng để người ta không nhận ra nó nữa. Chúng mình ăn trộm nó từ viên cảnh sát Jerry. Con Capi cũng cảm thấy ở tớ có chuyện gì đó nên để tớ muốn làm gì thì làm. Hơn nữa Bob còn biết rõ tất cả mọi thuật của bọn ăn cắp chó.
- Còn chân cậu thế nào?
- Khỏi rồi, hoặc gần như khỏi. Tớ chẳng còn thì giờ nghĩ đến nó nữa.
Chúng tôi đi rất nhanh vì ngựa tốt, Bob đánh xe cũng giỏi. Tuy nhiên, chúng tôi phải dừng lại cho con ngựa thở một chút và cho nó ăn.
Bob dừng lại giữa rừng, tháo ngựa và đeo vào cổ nó một cái túi dết đựng đầy lúa mạch lấy trong xe.
Đêm tối như bưng, nguy cơ bị bắt lại là rất thấp.
Lúc đó, tôi quay sang nói chuyện với Bob, hết lòng cảm ơn anh vì những gì anh đã làm cho chúng tôi. Nhưng anh ngăn lại, không cho tôi nói hết những điều tôi cảm thấy.
- Bọn em đã giúp anh... Anh nói và bắt tay tôi... Giờ đến lượt anh. Hơn nữa, em gần như là anh ruột của Mattia rồi còn gì. Mà đối với một cậu bé tốt như Mattia thì người ta sẵn sàng làm cho nó mọi việc.
Tôi hỏi anh xem chúng tôi còn xa Little-hampton không. Anh trả lời còn phải đi hai giờ nữa và chúng tôi phải gấp lên vì tàu của ông anh cứ đến sáng sớm thứ bảy, lúc thủy triều lên, là đi Isigny. Mà hôm nay đã là thứ sáu rồi.
Chúng tôi lại lên nằm trên ổ rơm dưới tấm vải bạt, con ngựa đã được nghỉ ngơi giờ đi rất nhanh.
- Cậu có sợ không? Mattia hỏi tôi.
- Có và không. Tớ rất sợ bị bắt lại nhưng xem ra người ta không bắt lại tớ được. Chỉ có một điều cứ giày vò tớ, đó là đi trốn chẳng khác gì mình có tội. Sẽ bào chữa cho mình thế nào bây giờ?
- Bọn mình cũng đã nghĩ đến điều đó, nhưng Bob tin rằng phải làm tất cả để cậu khỏi phải.xuất hiện trên ghế của tòa đại hình. Phải ngồi đó thì phiền lắm, ngay cả được tha bổng cũng vậy. Tớ thì tớ không dám nói gì, bởi vì dù gì đi nữa cũng phải đưa cậu về Pháp, tớ sợ rằng ý định đó có thể khiến tớ khuyên cậu lầm chăng.
- Cậu làm thế là phải, và dù xảy ra cái gì chăng nữa thì tớ cũng chỉ có thể cảm ơn cậu và anh Bob mà thôi.
- Sẽ không xảy ra cái gì đâu, cậu yên tâm đi. Khi tàu hỏa đến ga, viên cảnh sát của cậu sẽ phải báo cáo chuyện cậu bỏ trốn, nhưng trước khi tổ chức xong việc truy tìm cậu thì đã mất khối thì giờ rồi. Mà ta thì lại đang phi nước đại. Hơn nữa họ đâu biết ta xuống tàu ở Littlehampton mà theo.
Chắc chắn là, nếu họ không theo hút chúng tôi, chúng tôi sẽ có cơ may xuống tàu không lo gì cả, nhưng tôi không yên tâm bằng Mattia.
Trong khi đó con ngựa của chúng tôi, được Bob điều khiển một cách mạnh mẽ, vẫn tiếp tục chạy trốn rất nhanh trên con đường vắng vẻ. Chỉ thỉnh thoảng chúng tôi mới bắt gặp một vài chiếc xe khác. Những ngôi làng chúng tôi đi qua đều im ắng, lâu lâu mới có một cửa sổ còn sáng đèn muộn. Chỉ có vài con chó chú ý đến xe chúng tôi đang chạy nhanh nên sủa theo mà thôi.
Sau khi leo một đoạn đường dốc đứng, Bob dừng ngựa lại cho nó thở. Chúng tôi xuống xe, dán tai xuống đất nghe ngóng, nhưng ngay cả Mattia, tai thính hơn chúng tôi, cũng không nghe thấy tiếng động nào khả nghi.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình trong bóng tối và tĩnh lặng của đêm trường.
Bây giờ không phải chúng tôi nằm dưới tấm vải bạt để trốn nữa mà là để tránh những cơn gió lạnh.
Rồi một lúc sau, chúng tôi chợt cảm nhận thấy vị mặn của muối ở đầu lưỡi.
Đã gần đến biển.
Chẳng mấy chốc, chúng tôi nhìn thấy một luồng ánh sáng cứ từng khoảng cách đều đặn biến đi, rồi lại hiện ra rực rỡ.
Đó là chiếc đèn pha của một con tàu.
Chúng tôi đã đến nơi.
Bob dừng ngựa, đưa nó đi thong thả nhẹ nhàng vào một con đường ngang. Rồi anh xuống xe, bảo chúng tôi cứ ở yên đó, giữ lấy ngựa. Anh đi xem anh của mình đã khởi hành chưa và liệu chúng tôi xuống thuyền có nguy hiểm không.
Tôi thú thật là thời gian Bob vắng mặt đối với tôi sao mà lâu quá. Chúng tôi không ai nói gì, chỉ nghe sóng biển đập vào bờ cát sỏi ở gần đâu đấy với tiếng động đều đều càng làm tăng nỗi xúc động của chúng tôi. Mattia run bắn lên, tôi cũng vậy.
Cuối cùng, chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân ở con đường lúc nãy Bob đi.
Chính là Bob trở lại.
Anh không đi một mình. Khi anh tới gần, chúng tôi trông thấy một người đi cùng với anh. Đó là một người đàn ông mặc chiếc áo va-rơi bằng vải dầu và đội một cái mũ len.
- Đây là anh trai của anh... Bob nói... Anh ấy sẵn lòng nhận các em lên tàu. Ta chia tay nhau ở đây thôi. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong những hoàn cảnh tốt đẹp hơn, anh hứa với các em như thế.
Anh không nói thêm lời nào nữa và ôm hôn từng đứa chúng tôi, rất xúc động. Họng chúng tôi nghẹn lại không biết nói gì.
Bob ra đi không một tiếng động trong đêm tối.
Chúng tôi đi theo anh trai của Bob, và chẳng bao lâu đã đi vào những con phố tĩnh mịch của thành phố. Rồi sau vài khúc ngoặt, bến cảng đã hiện ra trước mặt.
Anh của Bob chỉ con tàu của mình cho chúng tôi, không nói gì.
Sau khi xuống tàu, anh đưa chúng tôi vào một ca-bin nhỏ.
- Hai tiếng nữa anh mới khởi hành... Anh nói... Bọn em đừng gây tiếng động nhé.
Khi anh đã khóa cửa ca-bin, Mattia sà vào vòng tay tôi không một tiếng động, ôm hôn tôi.
Nó không run nữa.
Hết