Thông tin truyện
Không Gia Đình Chương 8 : Gia đình ly tán Tác giả : Hector Malot Quốc gia : Pháp Thể loại : Văn học nước ngoài Số chương : 17 Người dịch : đang cập nhật
Đọc truyện
Serve 1
Cha Acquin là một trong những người chọn cây khéo nhất Paris, vì thế đến giai đoạn thực hiện công việc chọn cây quan trọng, nghĩa là phải lựa ra những cây quế trúc nở ra hoa kép, ông bận rộn suốt ngày. Thời kỳ đó đối với chúng tôi, đặc biệt với Étiennette, là thời kỳ xấu, vì các đồng nghiệp đến thăm nhau không bao giờ không uống đến một lít, có khi hai, ba lít rượu. Mỗi lần cha Acquin đi thăm hai hay ba người làm vườn khác, ông đều trở về nhà với khuôn mặt đỏ gay, tay run, nói năng ngọng nghịu. Không bao giờ Étiennette đi ngủ trước khi ông về, muộn mấy thì muộn. Lúc đó, nếu tôi còn thức, hoặc tiếng ông về làm tôi thức giấc, từ phòng tôi, tôi nghe tiếng hai cha con trao đổi với nhau. - Sao con không đi ngủ đi? Người cha nói. - Vì con muốn biết cha có cần gì không? - Thấy cha không về ăn tối Lise có nói gì không? - Nó cứ nhìn vào chỗ cha mãi. - Em nó đã ngủ chưa? - Nó mới đi ngủ độ mười lăm phút thôi, nó cứ muốn chờ cha. Sau một lát im lặng, tôi nghe thấy ông Acquin nói: - Étiennette này, con là cô con gái ngoan. Nghe cha bảo đây, ngày mai, cha đến Louisot, cha thề với con sẽ về ăn tối. Hứa như vậy, nhưng rồi đâu lại vào đấy, ông vẫn không về sớm hơn chút nào một khi đã nhận một ly rượu. Nhưng không phải thường thường như vậy. Hơn nữa thời kỳ chọn cây cũng không lâu lắm, hết thời kỳ đó ông Acquin không đi ra ngoài nữa. Sau mùa quế trúc, gia đình Acquin ngay lập tức chuyển sang trồng hoa cho những ngày lễ lớn, vào tháng bảy nhưng nhất là vào tháng tám, tháng có ngày lễ Sainte - Marie và Saint - Louis. Để có kịp hoa phục vụ những ngày đó, chúng tôi chuẩn bị hàng nghìn cây cúc sao Trung Quốc, cây vãn anh, cây trúc đào, tất cả những gì khung vườn và nhà kính của chúng tôi chứa nổi. Phải làm sao cho hoa nở đúng vào những ngày nói trên. Ai cũng biết điều đó đòi hỏi tài năng, vì ai mà làm chủ được thời tiết, được mặt trời! Cha Acquin còn hơn cả bậc thầy về nghệ thuật này. Mùa hoa của chúng tôi được tiên báo là sẽ tuyệt vời. Đến ngày mồng năm tháng tám thì toàn bộ cây chúng tôi trồng đã đến độ ra hoa. Chúng tôi đã làm việc vô cùng vất vả, không có lấy một giờ nghỉ ngơi kể cả ngày chủ nhật. Tuy nhiên, vì tất cả đã đâu vào đấy, nên để thưởng công cho chúng tôi, hôm ấy chúng tôi được đi ăn tối ở Arcueil tại nhà một người bạn của người cha, cả Capi cũng được tham dự. Chúng tôi làm việc cho tới tận ba, bốn giờ chiều hôm đó rồi mới đi. Thực hiện đúng lời hứa, vài phút trước bốn giờ, người cha quay chìa trong ổ khóa cửa lớn và vui vẻ nói: - Cả nhà lên đường nào! Chúng tôi thảy đều lộng lẫy trong những bộ quần áo đẹp. Thời gian trôi nhanh đến nỗi tôi không nhận ra nữa. Tôi chỉ biết là, vào cuối bữa ăn, một người trong bọn chúng tôi có nhận xét là trời đầy mây đen, và vì bàn ăn được dọn ngoài trời dưới một cây cơm cháy to, chúng tôi dễ dàng thấy ngay sắp có bão. - Các con ơi, phải mau mau về, gió mà nổi lên có thể lật nhào các tấm che. Lên đường thôi! Chúng tôi đều biết các tấm che lắp kính là cả tài sản của những người làm vườn, gió mà đập vỡ kính thì họ sạt nghiệp. - Cha đi trước đây... Ông Acquin nói... Cả Benjamin và Alexis nữa, đi theo cha. Chị Étiennette và tôi cùng đưa Lise về sau. Em còn nhỏ nên không thể đi nhanh. Liệu chúng tôi có đến nhà trước cơn bão được không? Bỗng nhiên, mưa đá bắt đầu rơi xuống, lúc đầu chỉ vài viên, sau tới tấp như một trận đá lở thực sự. Chúng tôi phải lao vào trú dưới một cái cổng. Đó là trận mưa đá khủng khiếp nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra được. Chỉ mới một lúc mà mặt phố đã phủ một lớp trắng xóa như giữa mùa đông. Những viên đá to bằng trứng chim bồ câu rơi xuống, đập ầm ầm xen lẫn tiếng vỡ của kính bị vỡ. Tất cả mọi thứ rơi đầy xuống phố, những viên ngói, những mảng lở thạch cao, những viên đá đen nát vụn. - Trời ơi! Những tấm kính! Chị Étiennette kêu lên. - Biết đâu cha đến được trước mưa đá thì sao? - Ngay cả đến được cũng không kịp phủ chiếu rơm lên. Thế là toi hết cả rồi! Cha sẽ sạt nghiệp. Trời ơi! Cha cần số tiền đó biết bao nhiêu! Tôi muốn hỏi chị Étiennette, nhưng chúng tôi hầu như không còn nghe thấy tiếng của nhau. Hơn nữa, trọng chị lúc ấy thật sầu não, khuôn mặt lo lắng, buồn thảm như người nhìn nhà mình bị cháy vậy. Trận mưa đá khủng khiếp kéo dài độ năm sáu phút rồi đột ngột ngừng lại như lúc nó bắt đầu. Mây đen tan dần và chúng tôi có thể đi được. Trong phố, các viên đá lăn lông lốc như những viên cuội ở biển, chúng tạo thành một lớp dày đến nỗi ngập mắt cá chân. Chúng tôi mau chóng về tới nhà. Cửa lớn vẫn để ngỏ. Khi chúng tôi bước vào vườn, quang cảnh mới hãi hùng làm sao. Tất cả đều bị đập vỡ tan tành. Căn vườn ban sáng đẹp là thế, nay không còn lại một chút gì. Cha Acquin đang ở đâu? Chúng tôi đi tìm nhưng không thấy ông đâu. Đến nhà kính, nơi mà không một miếng kính nào còn nguyên vẹn, chúng tôi.thấy ông quỵ người trên một chiếc ghế đẩu giữa đống đổ nát đầy mặt đất, Alexis và Benjamin đứng im cạnh ông. - Ôi! Các con yêu quý của cha! Thấy chúng tôi đến gần, ông ngẩng đầu lên. Rồi ông ôm Lise trong tay mà khóc. Ngay sau đó, tôi được biết, qua lời kể của chị Étiennette và hai cậu con trai, vì sao mà người cha thất vọng đến thế. Ông mua căn vườn này đã mười năm và tự tay xây lấy ngôi nhà. Người chủ bán đất cho vay tiền mua các vật dụng cần cho nghề trồng hoa của ông. Toàn bộ tiền sẽ trả trong mười lăm năm, mỗi năm trả một lần. Cho tới thời điểm trước trận mưa đá, cha Acquin vẫn trả nợ đúng kỳ hạn nhờ vào sự hăng say lao động và sự tiết kiệm chi li. Tuy nhiên, chỉ cần một đợt không trả tiền đúng hạn, thì ngay lập tức, tay chủ nợ sẽ nhân cơ hội đó để lấy lại đất, nhà và mọi vật liệu đồng thời chiếm giữ luôn số tiền đã thu mười năm trước. Đó là cách lão ta đầu tư, lão hy vọng trong mười lăm năm thế nào chẳng có ngày người cha không trả nổi, cho nên lão mới chịu đầu tư như thế. Ngày đó cuối cùng đã đến, đến cùng với trận mưa đá ban chiều. Bây giờ sẽ xảy ra chuyện gì đây? Chúng tôi không phải phân vân lâu, chỉ một ngày sau hạn trả tiền hàng năm mà lẽ ra người cha đã trả được bằng tiền bán cây, chúng tôi thấy một gã mặc đồ đen đi vào nhà, đưa cho chúng tôi một tờ giấy có dán tem, trên đó viết vài chữ trong một dòng để trống. Đó là ông mõ tòa. Và kể từ ngày ấy ông ta cứ đến luôn, đến nỗi thuộc tất cả tên chúng tôi. - Chào Rémi!... Ông ta nói... Chào Alexis! Cô khỏe chứ, cô Étiennette? Và ông ta đưa cho chúng tôi tờ giấy dán tem. Cha Acquin chạy khắp thành phố. Ông đi đâu? Có lẽ đến tòa án chăng? Chỉ nghĩ đến đó tôi đã cảm thấy sợ hãi. Cụ Vitalis cũng đã phải ra tòa, và kết quả thế nào tôi đã rõ. Đối với cha Acquin thì kết quả phải chờ lâu hơn. Một phần mùa đông trôi qua như thế. Chúng tôi không còn tiền để có thể sửa chữa lại nhà kính và vì thế chúng tôi chỉ trồng rau và các loại hoa không phải che chắn, tuy không có lời lắm, nhưng cũng gọi là có công việc. Một buổi tối, người cha trở về ủ rũ hơn mọi khi. - Các con ơi!... Ông nói... Hết rồi... Tôi định ra ngoài, tôi biết ông sắp nói một điều quan trọng mà có lẽ tôi không nên nghe. Nhưng bằng một cử chỉ, ông giữ tôi lại. - Con chẳng phải người trong gia đình hay sao?... Các con ơi! Cha sắp từ bỏ các con rồi. Một tiếng kêu đau đớn thốt lên. Lise nhảy vào vòng tay ông, vừa ôm hôn ông, vừa khóc. - Ồ! Chẳng lẽ các con nghĩ cha cố tình bỏ những đứa con ngoan như thế này hay sao? Nhưng cha bị kết tội không trả nổi tiền. Khi không có tiền, họ sẽ bán tất cả những thứ này đi, mà cho dù bán hết cũng không đủ trả hết nợ nần. Vì vậy, người ta bắt cha đi tù năm năm. Trong thời gian ấy các con sẽ ra sao?... Mọi người im lặng. - Rémi sẽ viết thư cho người em của cha là cô Catherine Suriot ở Dreuzy, giải thích cho cô rõ tình hình và mời cô đến đây. Đến khi đó, ta sẽ quyết định sẽ làm những gì trước khi đi tù. Lần đầu tiên, tôi viết một bức thư, nhưng đáng buồn thay, nó lại đem đến một sự bắt đầu ác nghiệt. Dầu sao, chúng tôi vẫn hy vọng. Cô Catherine sẽ đến, điều đó cũng là đủ đối với những đứa trẻ như chúng tôi. Tuy nhiên, cô không đến nhanh như chúng tôi tưởng. Cảnh sát kinh tế, tức những người chuyên đi bắt các con nợ, đã đến trước cô. Người cha đang định đi ra ngoài thì chạm trán họ, lúc đó có tôi đi cùng. Chỉ trong một giây, họ vây lấy chúng tôi. Ông tái xanh đi như bị choáng váng và bằng một giọng yếu ớt xin được ôm hôn các con. - Đừng có khổ não quá ông bạn dũng cảm ạ!... Một trong những người lính gác nói... Đi tù nợ không đến nỗi kinh khủng lắm đâu. Tôi đi tìm mấy anh em trai trong vườn. Khi chúng tôi trở lại, người cha đang bế Lise trong tay, em khóc sướt mướt. Một trong những người lính gác thì thầm vào tai ông cái gì đó tôi nghe không rõ. - Phải... Người cha nói... Ông nói đúng, phải thế thôi. Rồi đột ngột đứng lên, ông đặt Lise xuống đất, nhưng em cứ bấu chặt lấy ông không rời bàn tay ông ra. Cha Acquin lần lượt ôm hôn Étiennette, Alexis và Benjamin. Tôi đứng trong một góc, mắt mờ đi vì nước mắt. Ông gọi tôi: - Còn con, Rémi, con không đến ôm hôn cha ư? Con không phải là con của cha sao? Nhìn quanh các con mình một lần cuối, cha Acquin chỉ kịp thốt lên: - Các con cứ đứng đấy, đừng đi theo cha. Cha ra lệnh đấy. Và ông vội vàng rời bỏ chúng tôi sau khi đặt bàn tay Lise vào tay chị Étiennette. Chúng tôi sững sờ đứng giữa bếp, ai cũng khóc. Chị Étiennette, người xưa nay vốn can đảm là thế, người vẫn thường nâng đỡ tinh thần chúng tôi, nay đến lượt mình cũng phải quỵ, cũng yếu đuối như chúng tôi. Chúng tôi vẫn biết thế nào cũng có ngày này, nhưng chúng tôi đều nghĩ cô Catherine lúc đó sẽ có mặt. Nhưng cô Catherine đã không kịp đến. Cô đến sau khi người cha bị giải đi độ một giờ và nhìn thấy tất cả chúng tôi im lặng ở trong bếp, không ai nói với ai một lời. Cô Catherine là một người đàn bà cương nghị, đã từng làm vú nuôi ở Paris mười năm. Cô hiểu những khó khăn ở đời này. Chúng tôi nhẹ hẳn người khi được nghe cô ra lệnh, được vâng lời cô. Đối với một người đàn bà nông thôn không của cải gì, phải gánh vác một trách nhiệm như vậy, quả thật là nặng nề. Ngay ngày hôm sau, cô đến hỏi ý kiến một công chứng viên, cha của một đứa bé mà cô nuôi trước kia, để quyết định số phận chúng tôi trong thời gian ông Acquin đi tù. Sau đó, cô đến nhà tù để nhất trí với người cha. Tám ngày sau khi đến Paris, cô cho chúng tôi biết quyết định này như thế nào. Vì chúng tôi còn nhỏ quá để tự đi làm, nên mỗi một người sẽ đến ở với một trong các người bà con: Lise được giao cho cô Catherine ở Morvan chăm sóc, Alexis về nhà một người chú ở Varses, Benjamin ở nhà một ông chú khác làm vườn ở Saint - Quentin, chị Étiennette ở nhà một người cô ở Esnandes. Tôi nghe những sự xếp đặt đó, chờ đến lượt mình. Nhưng vì cô Catherine không nói gì thêm, tôi bèn tiến lên hỏi: - Còn cháu thì sao ạ? - Cháu ư? Cháu có phải người trong gia đình đâu?! - Cháu làm việc cho gia đình. - Nhưng cháu không phải người trong gia đình. - Có chứ, có chứ, anh ấy là người trong gia đình. Tất cả đều nói. Lise tiến tới trước mặt người cô, hai tay chắp lại, cử chỉ đó còn nói lên nhiều hơn những lời nói dài dòng. - Cháu bé nhỏ tội nghiệp ơi!... Cô Catherine nói... Cô hiểu cháu lắm. Nhưng ở đời này, không phải việc gì người ta muốn đều có thể làm được. Chỉ riêng cho gia đình không thôi, miếng bánh đã quá nhỏ rồi. Tôi cảm thấy không làm gì hơn được. Điều cô Catherine nói chỉ quá đúng mà thôi. Cô Catherine cho chúng tôi biết ngày mai sẽ chia tay, rồi cô cho chúng tôi đi ngủ. Vừa vào đến phòng, tất cả mọi người đều vây quanh tôi, Lise sà vào tôi mà khóc. Tôi hiểu rằng, tuy ai nấy đều buồn vì phải xa cách nhau, nhưng họ vẫn luôn nghĩ đến tôi, phàn nàn cho tôi, tôi cảm thấy mình đúng là anh em ruột của họ. - Các anh chị nghe em nói này... Tôi xúc động... Em thấy rõ là các anh chị coi em như người trong gia đình vậy. - Đúng thế! Bao giờ em cũng là em, anh ruột của chúng tôi. Họ nói. - Được, thế thì em sẽ tỏ ra cho các anh chị thấy, em cũng là một thành viên trong gia đình. Em sẽ lại lấy tấm da cừu và cây đàn hác-pơ xuống, em sẽ đi từ Saint - Quentin tới Varses, từ Varses tới Esnandes, từ Esnandes đến Dreuzy và như thế, em sẽ có cơ hội thăm lần lượt tất cả các anh chị. Em vẫn còn nhớ các bài hát, các điệu nhạc, em sẽ tự kiếm sống. Trên nét mặt mọi người lộ rõ sự hài lòng. Tôi biết, ý nghĩ của tôi cũng là khát vọng của mỗi người. Chúng tôi cứ nói về dự định đó mãi. Rồi chị Étiennette muốn chúng tôi vào giường, nhưng nào có ai ngủ được đêm hôm ấy. Ngay từ sáng sớm, Lise đã đưa tôi ra vườn và làm tôi hiểu rằng em muốn tôi tới thăm những người khác trước em, để em biết được tin tức của tất cả mọi người. Họ phải ra đi lúc tám giờ sáng, cô Catherine đã thuê một chiếc xe ngựa. Trước tiên, mọi người sẽ vào nhà tù để giã từ ông Acquin, sau đó đem theo bọc hành lý của từng người một ra ga. Tới bảy giờ đến lượt chị étiennette đưa tôi ra vườn. - Chị muốn để lại cho em một kỷ niệm, đó là bộ đồ của người nội trợ. Trong này, em sẽ tìm thấy kim, chỉ, kéo, những thứ mà em cần đấy. Trong khi chị Étiennette nói chuyện với tôi thì Alexis cứ quẩn quanh ở chỗ chúng tôi. Chị vào nhà xong thì Alexis lại gần tôi. - Anh có hai đồng một trăm xu... Alexis nói... Anh sẽ rất vui nếu như em nhận một đồng anh tặng. Trong năm chúng tôi, Alexis là người duy nhất có ý thức về tiền. Chúng tôi vẫn thường chế nhạo thói hà tiện của anh. Việc anh cho tôi tiền làm tôi xúc động quá. Tôi muốn từ chối nhưng anh cứ ép mãi, buộc lòng tôi phải nhận. Qua đó phải thấy là tình cảm của anh đối với tôi thật mạnh mẽ. Benjamin cũng không quên tôi, anh cho tôi một con dao đổi lấy một xu, bởi vì anh nghe nói "dao là thứ cắt đứt tình bạn". Thời gian trôi nhanh quá. Đến lúc nghe tiếng xe ngựa lại gần. Lise từ phòng cô Catherine bước ra và ra hiệu cho tôi theo em. Trong vườn chúng tôi có một cây hoa hồng Băng-gan ở một góc hẻo lánh. Lise đi về phía cái cây, cắt một cành hồng rồi chia cành hồng đó làm hai nhánh, mỗi bên có một nụ hoa hàm tiếu, rồi trao cho tôi một nhánh. A! Tiếng nói của đôi môi thật chẳng nghĩa lý gì so với tiếng nói của đôi mắt! So với cái nhìn thì lời nói thật lạnh nhạt và trống rỗng biết bao! - Lise! Lise! Người cô gọi. Các bọc quần áo đã đem lên xe cả rồi. Tôi cầm lấy cây đàn, gọi Capi. Nó nhảy lên mừng rỡ, vì hiểu rằng chúng tôi lại lên đường. lại được tự do đi đó đây. Cuối cùng, giờ phút chia tay cũng đã đến. - Các anh chị hôn cha hộ em với nhé! Tôi kêu lên. Một tiếng nức nở làm giọng tôi nghẹn lại. Xe ngựa đi mất. Thế là hết. Một người láng giềng chịu trách nhiệm đóng cửa căn nhà, ông ta làm tôi tỉnh nỗi sững sờ: - Cháu không ở lại đây ư? Ông ta hỏi. - Không ạ, cháu đi. - Đi đâu? - Cháu cứ thẳng trước mặt mà đi thôi. Có lẽ ông làm một động tác vì tình thương, bởi vì ông chìa tay cho tôi: - Nếu cháu muốn ở lại đây..., ông ta nói,... thì bác sẽ giữ cháu, nhưng không có lương. Tôi cảm ơn , nhưng lịch sự từ chối lời đề nghị của ông. Tôi đeo dây đàn lên vai, rồi khoát tay và nói: - Đi nào, Capi! Capi nhảy lên trước mặt tôi sủa vang. Mặt trời đã lên cao, trời trong vắt và ấm áp. Một cuộc đời mới mở ra trước mặt tôi. Tôi chỉ là một đứa trẻ mà đã là chủ mình! Hỡi ôi! Hoàn cảnh tôi thật đáng buồn. Mặc dầu còn nhỏ nhưng tôi đã phải chịu nhiều bất hạnh, để rồi trở nên thận trọng và khôn ngoan hơn những đứa trẻ bình thường ở tuổi tôi. Đó là một lợi thế mà tôi đã phải trả bằng một giá đắt. Vì vậy, trước khi lao mình vào con đường mở ra trước mặt tôi, tôi muốn đi thăm con người mà trong những năm qua, đối với tôi, ông đã như là một người cha. Cô Catherine không đem tôi theo cùng các con ông để tôi từ biệt ông, thì tôi sẽ đi một mình đến ôm hôn ông vậy. Chưa bao giờ tới nhà tù, nhưng thời gian gần đây tôi đã nghe nói đến nó khá nhiều nên chắc chắn là có thể tìm được. Buộc Capi vào một sợi dây thừng, tôi dắt nó đi đến nhà tù Clichy. Tôi ngừng lại một lúc trước khi dám vào, tưởng như mình vào đó sẽ bị bắt giữ. Tôi vẫn hình dung ra khỏi nhà tù rất khó, và khi đến nhà tù này, tôi lại biết thêm rằng, muốn vào cũng chẳng dễ chút nào. Cuối cùng, không chịu để người ta không cho mình vào, đuổi mình về, tôi đã gặp được người tôi muốn gặp. Người ta đưa tôi vào một hành lang không thanh chắn, không chấn song sắt như tôi đã nghĩ và ngay sau đó, nhìn thấy cha Acquin đi ra cũng không bị xích xiềng như tôi hằng tưởng tượng. - Cha đang chờ con đây Rémi ạ... Ông bảo tôi... Cha đã mắng Catherine sao không đưa con tới. Mấy đưa nhỏ nói với cha là con trở lại nghề hát. Con đã quên mình suýt chết vì đói và rét ở cửa nhà ta rồi chăng? Nếu tôi từ bỏ cuộc đời đó thì chỉ còn một cách là ở cố định một chỗ nào. Nhưng nếu làm vậy, tôi sẽ thất hứa với chị Étiennette, Alexis, Benjamin và Lise. Thực tế chị Étiennette, Alexis và Benjamin chẳng cần nhờ tôi, họ có thể viết thư cho nhau. Nhưng còn Lise thì sao, em không biết viết, cả cô Catherine cũng vậy. Nếu tôi không đến thăm Lise, em sẽ hoàn toàn bị bỏ rơi. Em sẽ nghĩ về tôi thế nào? - Thế chẳng lẽ cha không muốn con cho cha biết tin tức của các anh chị em con hay sao? Tôi nói. - Chúng có nói với cha về chuyện đó... Nhưng không phải chỉ vì nghĩ đến mình mà cha muốn con từ bỏ cuộc đời người hát rong. - Chính vì vậy đấy cha ạ, nếu con từ bỏ cam kết mà con đã hứa, thì điều đó có nghĩa con không nghĩ đến Lise. Ông nhìn tôi rất lâu rồi đột nhiên nắm lấy hai bàn tay tôi: - Con trai của cha, cha sẽ ôm hôn con vì lời nói đó. Con là một đứa trẻ có tâm. Chỉ có hai chúng tôi ở trong hành lang, chúng tôi ngồi bên nhau trên một chiếc ghế dài, tôi lao vào tay ông. - Cha chỉ muốn nói với con một lời này nữa thôi... Người cha nói tiếp... Thôi đành nhờ Trời! Và cả hai chúng tôi ngồi im lặng... Rồi thời gian gian thăm tù đã hết, đã tới lúc chúng tôi phải chia tay. Bỗng nhiên, ông lục túi áo gi-lê lôi ra một chiếc đồng hồ quả quýt to, có dây da buộc vào khuyết áo. - Chẳng nhẽ ta chia tay nhau mà con lại không mang theo một kỷ vật nào của cha? Đây là chiếc đồng hồ của cha. Cha cho con. Nó chẳng có giá trị gì lớn lắm, nếu đáng giá, cha đã bán đi rồi. Nó chạy không được tốt, thỉnh thoảng lại phải lấy ngón tay đẩy. Nhưng lúc này, cha chỉ còn có thế. Nói xong, ông đặt chiếc đồng hồ vào tay tôi. Rồi thấy tôi có vẻ muốn từ chối một món quà tặng quý đến thế, ông buồn bã nói thêm: - Ở đây, cha không cần xem giờ, thời gian chỉ trôi quá chậm mà thôi... Vĩnh biệt con, Rémi bé nhỏ của cha! Và ông cầm tay tôi dắt ra cửa. Tôi cảm động khôn xiết. Tôi đứng trên phố khá lâu, rất lâu là khác, không biết nên đi sang trái hay sang phải và có lẽ tôi còn đứng như thế cho đến đêm nếu như.tay tôi không bất ngờ chạm vào một vật tròn cứng. Một cách máy móc và cũng không hiểu mình làm gì, tôi sờ vào nó, hóa ra cái đồng hồ mà cha Acquin vừa cho tôi. Đúng giữa trưa. Đột bhie6n, Capi kéo ống quần tôi. Nó sủa lên vui mừng. - Mày muốn gì, Capi? Nó nhìn tôi, chờ đợi mấy phút, rồi vươn người lên đặt chân vào cái túi có chiếc đồng hồ. Thì ra nó muốn xem giờ để nói với "cử tọa đáng kính" như thời làm việc cùng cụ Vitalis. Tôi cho nó xem. Nó nhìn khá lâu như cố nhớ lại, rồi bắt đầu vẫy đuôi, sủa lên mười hai tiếng. Thế là nó vẫn không quên. A! Chúng tôi sẽ kiếm được tiền với cái đồng hồ này đây! Thêm một điều tôi không tính đến. Vì chuyện này diễn ra giữa phố ngay cửa nhà tù, có nhiều người đứng lại tò mò nhìn chúng tôi. Giá mà dám thì tôi đã chơi ngay một buổi biểu diễn, nhưng vì sợ cảnh sát nên tôi thôi. Nghề của tôi lúc này cần nhất là một cái bản đồ nước Pháp và tôi biết người ta bán nó dưới kè sông. Tôi quyết định mua một cái bèn đi về hướng đó. Tới nhà thờ Saint - Médard, tôi nhận ra đứa trẻ đang đứng dựa vào tường nhà thờ, đứa trẻ kỳ lạ mà tôi đã nhìn thấy ở nhà Garifoli, vẫn đôi mắt ướt ấy, vẫn vẻ dịu dàng nhẫn nhục ấy. Tôi lại gần. Dường như nó cũng nhận ra tôi, liền hỏi: - Có phải anh đến nhà Garifoli cùng với cụ già râu bạc trước hôm tôi vào bệnh viện không nhỉ? - Tôi đấy. Garifoli vẫn là chủ anh à? - Người ta đã bắt hắn rồi vì hắn đánh một đứa trẻ nhiều quá đến nỗi nó chết. Lần đầu tiên tôi thấy nhà tù có ích. - Bọn trẻ con thì sao? Tôi hỏi. - À! Tôi có biết gì đâu. Tôi vào bệnh viện vì thằng cha Garifoli đối xử với tôi tệ quá đến nỗi tôi ốm. Ở bệnh viện ra, tôi về lại chỗ Garifoli thì chẳng còn ai. Một người hàng xóm kể lại cho tôi nghe những điều tôi vừa nói với anh. Thành ra tôi mới ở đây, không biết đi đâu, không biết làm gì. Tôi không giàu có gì, nhưng tôi đủ để làm cho thằng bé này không đến nỗi chết đói. Tôi chạy đến cửa hàng bánh mì, rồi quay về đưa nó một cái bánh mì tròn. Nó vồ lấy nhai ngấu nghiến. - Còn bây giờ anh định làm gì? Tôi hỏi nó. - Tôi không biết. Tôi đang định bán cây vĩ cầm đi. Lẽ ra tôi đã bán rồi nếu như việc xa nó không làm cho tôi buồn bã quá. Cây vĩ cầm này là niềm vui, niềm an ủi của tôi. Những lúc buồn, tôi tìm một chỗ khuất, rồi kéo đàn. Lúc ấy, tôi nhìn thấy tất cả những thứ đẹp đẽ ở trên đời này, còn đẹp hơn cả trong mơ nữa. - Thế sao anh không kéo đàn trong phố? - Tôi đã chơi đàn trong phố rồi đấy chứ, nhưng chẳng ai cho tiền cả. Còn anh thì sao? Anh làm gì? Không hiểu tình cảm khoe khoang trẻ thơ nào đã gây cảm hứng cho tôi: - Tôi là chủ gánh hát. Tôi nói. - Ồ! Thế anh có cho tôi nhập vào gánh được không? Tên tôi là Mattia. Thằng bé nói. - Nhưng cả gánh hát của tôi chỉ có thế này. Tôi chỉ vào Capi. - Cần gì! Ta có hai người. Ôi! Xin anh, đừng bỏ rơi tôi, tôi sẽ ra sao? Tôi làm việc được, chơi vĩ cầm được, làm trật khớp được, nhảy dây được, chui qua vòng được, hát được, anh muốn gì tôi làm nấy! Tôi không yêu cầu tiền, chỉ mong có cái ăn. Tôi mà làm tồi anh cứ việc đánh tôi, chỉ xin anh một điều. Đừng đánh vào đầu. Nghe Mattia tội nghiệp nói vậy, tôi chỉ muốn khóc. - Được. Tôi bảo nó. Lập tức nó cầm lấy bàn tay tôi, rồi hôn lên đó. Nước mắt tôi dâng lên. - Đi theo tôi, như một người bạn ấy! Tôi bảo. Và xóc lại chiếc dây đeo đàn hác-pơ trên vai: - Tiến lên! Chỉ một khắc đồng hồ sau, chúng tôi ra khỏi Paris. Gió hanh tháng ba làm đường khô ráo, việc đi bộ cũng trở nên dễ dàng hơn. Khí trời dịu, mặt trời rực rỡ trên bầu trời trong xanh không một gợn mây. Thật khác biệt biết bao so với cái ngày tuyết rơi mà tôi vào Paris, nơi tôi đã từng xem như một vùng đất hứa. Cuộc du hành của chúng tôi khởi đầu thật đẹp, tôi sải bước trên con đường vang tiếng bước chân với đầy niềm tin. Capi, được tháo dây buộc, chạy quanh chúng tôi, bất cứ cái gì và chẳng làm sao cũng sủa. Có lẽ nó chỉ vì thích mà sủa. Bên cạnh tôi, Mattia đi trong yên lặng. Tôi đã hứa với Lise đi gặp hai anh và chị Étiennette của em trước, nhưng tôi không cam kết sẽ thăm ai đầu tiên: Benjamin, Alexis hay chị Étiennette? Tôi đến thăm ai trước tiên sẽ do tôi chọn, nghĩa là tôi có thể đi Cévennes, Charente hoặc Picardie. Vì tôi ra khỏi Paris về phía nam, tôi chỉ còn chọn hoặc Alexis hoặc chị Étiennette. Một trong những lý do làm tôi muốn đi xuống phía nam trước, đó là vì mong gặp má Barberin. Nếu như đã từ lâu tôi không nói tới má, không có nghĩa là tôi đã quên má. Cũng không nên tưởng rằng tôi là kẻ vô ơn, đã không viết thư cho má. Biết bao lần tôi đã định viết cho má để bảo với má như thế này: "Con luôn nghĩ đến má và yêu má với cả tấm lòng con". Nhưng, một phần vì má không biết đọc, phần khác, nỗi sợ lão Bar-berin kìm tay tôi lại. Nếu Barberin nhờ thư tôi mà biết tôi ở đâu, hắn có bắt lại tôi chăng? Rồi lại đem bán tôi đi lần nữa chăng? Có lẽ lão có quyền làm việc đó. Nghĩ đến đó, thà tôi bị má Barberin buộc tội là vô ơn còn hơn vô phúc lại rơi vào quyền hành của lão Barberin. Nhưng bây giờ khi mà tôi muốn đi đâu thì đi, tôi có thể gặp lại má lắm chứ. Hơn nữa, vì đã thu nhận Mattia vào "gánh hát" của tôi, tôi thấy vấn đề này cũng dễ thôi. Tôi có thể cử Mattia vào trước, tôi khôn ngoan lùi lại sau. Nó sẽ lấy cớ gì đó vào nhà má Barberin. Nếu má có một mình, nó sẽ kể sự thực cho má nghe, rồi ra báo cho tôi biết. Khi đó, tôi sẽ vào căn nhà nơi trôi qua tuổi ấu thơ của tôi để sà vào vòng tay thân yêu của má. Còn nếu như lão Barberin đang ở nhà thì Mattia sẽ đề nghị má Barberin đến một chỗ đã hẹn trước, để tôi được ôm hôn má. Vừa đi tôi vừa xây dựng cả một kế hoạch như vậy. Lúc này, chúng tôi đang ở giữa chốn đồng quê nên có thể nghỉ chân một lúc. Tôi bảo Mattia: - Nếu anh muốn, chúng ta sẽ nghỉ một chút. - Vâng nhưng tôi muốn xin anh xưng hô cậu, tớ với tôi. - Tôi muốn thế lắm. Thế là nó cười, một cái cười chân thành dịu dàng giơ hết cả răng ra, bộ răng trắng ngà trên khuôn mặt rám nắng. Tôi lấy bản đồ ra, trải trên cỏ. Tôi định hướng khá lâu, cuối cùng vạch ra hành trình của mình như sau: Corbeil, Fontainebleau, Montargis, Gien, Bourges, Saint - Amand, Montlucon. Có thể tới Chavanon được và nếu gặp chút may mắn thì dọc đường chúng tôi sẽ không chết đói. Trong khi tôi nghiên cứu bản đồ, Mattia quan sát tôi một cách chăm chú. - Cậu biết đọc ư? - Có chứ. Thế còn cậu, cậu không biết đọc à? - Không. - Thế có muốn học không? - Ồ! Có chứ. - Được, thế thì tớ sẽ dạy cậu. Mở cái túi ra, tôi bỗng có ý nghĩ xem thử ở trong có những thứ gì. Tôi bèn bày cả ra trên cỏ. Tôi có ba áo sơ mi bằng vải toan, ba đôi tất, năm khăn tay, tất cả đều còn rất mới, và một đôi giày đã bắt đầu cũ. Mattia lóa mắt. - Còn cậu, cậu có những gì nào? Tôi hỏi nó. - Cây đàn và bộ quần áo mặc trên người. - Được!...Tôi nói... Ta sẽ chia ra, vì ta là bạn mà. Cậu sẽ có hai áo sơ mi, hai đôi tất, ba khăn tay. Có điều là mỗi đứa sẽ đeo cái túi trong một giờ đồng hồ. Mattia muốn từ chối phần đầu của lời đề nghị, nhưng tôi đã có thói quen chỉ huy, tôi không cho nó cãi lại. Tôi bày cái túi nội trợ mà chị Étiennette cho tôi trên mấy chiếc áo sơ mi, cả cái hộp đựng bông hoa hồng của Lise nữa. Mattia tò mò, muốn mở cái hộp ra, nhưng tôi không cho phép và cất cái hộp đó vào túi. - Nếu cậu muốn làm vui lòng tớ,... tôi bảo nó,... thì đừng bao giờ mở cái hộp này ra. Đó là một quà tặng. Từ khi trở lại khoác tấm da cừu và khoác cây đàn hác-pơ, có một điều làm tôi khá lúng túng, đó là chiếc quần của tôi. Nghệ sĩ không.mặc quần dài. Để xuất hiện trước công chúng phải mặc quần cụt, đi tất, trên có buộc chéo những sợi ruy-băng. Tôi bèn mở cái túi nội trợ của chị Étiennette ra, cầm lấy cái kéo. - Trong khi tớ sửa cái quần,... tôi bảo Mattia,... cậu cho tớ biết tài nghệ chơi vĩ cầm của cậu nào. Nó cầm lấy đàn và bắt đầu chơi. Trong thời gian đó tôi dũng cảm đưa mũi kéo vào cắt quần. Thoạt đầu tôi vừa cắt quần vừa nghe Mattia, nhưng rồi chẳng mấy chốc, tôi dừng hẳn lại, dỏng tai lên nghe. Mattia chơi vĩ cầm chẳng kém gì cụ Vitalis. Tôi vừa vỗ tay vừa hỏi nó: - Ai dạy cậu đàn thế? - Mỗi người một tí, chủ yếu tự học trong khi làm việc. Tớ chơi những gì nghe được ở người khác. Đến lượt tôi, tôi cũng muốn tỏ cho Mattia biết mình cũng là một tay chơi nhạc không tồi. Cầm lấy cây đàn hác-pơ, tôi hát một khúc mà tôi yêu thích. Thế là, như giữa những nghệ sĩ với nhau, Mattia đáp lại lời ca của tôi bằng những cái vỗ tay. Nhưng, sau khi chơi nhạc cho vui cũng phải nghĩ đến chơi nhạc để có cơm chiều, có chỗ ngủ nữa chứ. Chúng tôi lại lên đường. - Cậu dạy tớ bài hát của cậu đi... Mattia nói... Ta sẽ cùng hát. Tớ nghĩ chẳng bao lâu tớ sẽ đệm vĩ cầm được, như thế rất hay. Sau Villejuif, chúng tôi đến một ngôi làng nọ. Khi qua cổng một cái trại, chúng tôi thấy trong sân đầy người: đang có đám cưới. Tôi chợt có ý nghĩ họ cần có người chơi đàn để nhảy, thế là tôi bước vào, theo sau là Mattia và Capi. Tay ngả mũ chào thật cung kính, tôi đề nghị với người đầu tiên gặp trên đường vào. Đó là một chàng thanh niên to lớn có vẻ dễ chịu, tính tình điềm đạm. - Này, các vị ơi!... Anh ta gọi... Các vị nghĩ sao nếu có chút nhạc? Ta đứng vào nhảy ca-đri nào! Chỉ vài phút sau ai nấy đứng thành từng nhóm ở giữa sân để nhảy. - Cậu có chơi được điệu nhảy ca-đri không? Tôi hỏi khẽ Mattia vì tôi khá lo lắng. - Được. Nó kéo thử đàn vĩ cầm cho tôi nghe, may mà tôi cũng biết điệu ấy. Thế là chúng tôi thoát hiểm. Người ta đem một cái xe bò từ trong nhà để xe ra, cho chúng tôi lên đó. Tuy chưa hòa nhạc với nhau bao giờ, nhưng chúng tôi cùng chơi điệu nhảy ca-đri không đến nỗi dở. Cũng may chúng tôi chơi ở đây cho những đôi tai không sành nhạc, cũng không khó tính lắm. - Có cậu nào trong hai cậu biết chơi kèn đẩy coóc-nê không nhỉ? Anh thanh niên to lớn hỏi chúng tôi. - Có, có... Mattia trả lời,... nhưng tôi không có kèn. - Để tôi đi kiếm. Vĩ cầm thì hay thật đấy, nhưng hơi nhạt nhẽo. - Cậu chơi cả kèn đẩy nữa cơ à? Tôi hỏi Mattia. - Cả kèn tơ-rôm-pét có rãnh, cả sáo, tất cả các nhạc cụ. Quả thằng bé đáng quý thật. Chẳng mấy chốc kèn coóc-nê được mang đến, chúng tôi lại cùng chơi khúc nhảy ca-đri, pôn-ka, van-xơ... cứ như thế cho đến tối. Chúng tôi mệt rã rời. Cô dâu xuất hiện. - Thôi thôi!... Cô nói... Hai đứa trẻ không đàn nổi nữa rồi. Chuẩn bị đặt tay vào túi tiền đi nào. - Nếu cô cho phép,... tôi nói với cô,... chúng tôi sẽ cho thủ quỹ của chúng tôi đi thu tiền ạ. Tôi ném cái mũ của mình cho Capi, nó ngậm vào mõm. Mọi người vỗ tay rầm rập khi thấy nó duyên dáng chào người ta mỗi khi người ta cho tiền, nhưng điều đáng giá hơn đối với chúng tôi là người ta cho nhiều lắm. Tôi theo dõi thấy những đồng bạc trắng xóa rơi xuống mũ, cuối cùng chú rể bỏ vào một đồng năm phrăng. Chưa phải đã hết. Người ta mời chúng tôi vào bếp ăn cơm và cho chúng tôi ngủ trong vựa thóc. Sáng hôm sau, khi rời căn nhà mến khách đó chúng tôi có vốn liếng là hai mươi tám phrăng. Cả một tài sản! - Nhờ cậu mà có đấy, Mattia ạ. Tôi bảo bạn tôi. - Một mình tớ thì làm sao thành ban nhạc được. Chúng tôi lại lên đường, lòng thênh thang đầy hy vọng. Cuối cùng tương lai mỉm cười với chúng tôi chăng?Hết
Chọn chương để xem
Serve 1
Cha Acquin là một trong những người chọn cây khéo nhất Paris, vì thế đến giai đoạn thực hiện công việc chọn cây quan trọng, nghĩa là phải lựa ra những cây quế trúc nở ra hoa kép, ông bận rộn suốt ngày. Thời kỳ đó đối với chúng tôi, đặc biệt với Étiennette, là thời kỳ xấu, vì các đồng nghiệp đến thăm nhau không bao giờ không uống đến một lít, có khi hai, ba lít rượu. Mỗi lần cha Acquin đi thăm hai hay ba người làm vườn khác, ông đều trở về nhà với khuôn mặt đỏ gay, tay run, nói năng ngọng nghịu.
Không bao giờ Étiennette đi ngủ trước khi ông về, muộn mấy thì muộn.
Lúc đó, nếu tôi còn thức, hoặc tiếng ông về làm tôi thức giấc, từ phòng tôi, tôi nghe tiếng hai cha con trao đổi với nhau.
- Sao con không đi ngủ đi? Người cha nói.
- Vì con muốn biết cha có cần gì không?
- Thấy cha không về ăn tối Lise có nói gì không?
- Nó cứ nhìn vào chỗ cha mãi.
- Em nó đã ngủ chưa?
- Nó mới đi ngủ độ mười lăm phút thôi, nó cứ muốn chờ cha.
Sau một lát im lặng, tôi nghe thấy ông Acquin nói:
- Étiennette này, con là cô con gái ngoan. Nghe cha bảo đây, ngày mai, cha đến Louisot, cha thề với con sẽ về ăn tối.
Hứa như vậy, nhưng rồi đâu lại vào đấy, ông vẫn không về sớm hơn chút nào một khi đã nhận một ly rượu.
Nhưng không phải thường thường như vậy.
Hơn nữa thời kỳ chọn cây cũng không lâu lắm, hết thời kỳ đó ông Acquin không đi ra ngoài nữa.
Sau mùa quế trúc, gia đình Acquin ngay lập tức chuyển sang trồng hoa cho những ngày lễ lớn, vào tháng bảy nhưng nhất là vào tháng tám, tháng có ngày lễ Sainte - Marie và Saint - Louis. Để có kịp hoa phục vụ những ngày đó, chúng tôi chuẩn bị hàng nghìn cây cúc sao Trung Quốc, cây vãn anh, cây trúc đào, tất cả những gì khung vườn và nhà kính của chúng tôi chứa nổi. Phải làm sao cho hoa nở đúng vào những ngày nói trên. Ai cũng biết điều đó đòi hỏi tài năng, vì ai mà làm chủ được thời tiết, được mặt trời! Cha Acquin còn hơn cả bậc thầy về nghệ thuật này.
Mùa hoa của chúng tôi được tiên báo là sẽ tuyệt vời.
Đến ngày mồng năm tháng tám thì toàn bộ cây chúng tôi trồng đã đến độ ra hoa. Chúng tôi đã làm việc vô cùng vất vả, không có lấy một giờ nghỉ ngơi kể cả ngày chủ nhật. Tuy nhiên, vì tất cả đã đâu vào đấy, nên để thưởng công cho chúng tôi, hôm ấy chúng tôi được đi ăn tối ở Arcueil tại nhà một người bạn của người cha, cả Capi cũng được tham dự. Chúng tôi làm việc cho tới tận ba, bốn giờ chiều hôm đó rồi mới đi.
Thực hiện đúng lời hứa, vài phút trước bốn giờ, người cha quay chìa trong ổ khóa cửa lớn và vui vẻ nói:
- Cả nhà lên đường nào!
Chúng tôi thảy đều lộng lẫy trong những bộ quần áo đẹp. Thời gian trôi nhanh đến nỗi tôi không nhận ra nữa. Tôi chỉ biết là, vào cuối bữa ăn, một người trong bọn chúng tôi có nhận xét là trời đầy mây đen, và vì bàn ăn được dọn ngoài trời dưới một cây cơm cháy to, chúng tôi dễ dàng thấy ngay sắp có bão.
- Các con ơi, phải mau mau về, gió mà nổi lên có thể lật nhào các tấm che. Lên đường thôi!
Chúng tôi đều biết các tấm che lắp kính là cả tài sản của những người làm vườn, gió mà đập vỡ kính thì họ sạt nghiệp.
- Cha đi trước đây... Ông Acquin nói... Cả Benjamin và Alexis nữa, đi theo cha.
Chị Étiennette và tôi cùng đưa Lise về sau. Em còn nhỏ nên không thể đi nhanh.
Liệu chúng tôi có đến nhà trước cơn bão được không?
Bỗng nhiên, mưa đá bắt đầu rơi xuống, lúc đầu chỉ vài viên, sau tới tấp như một trận đá lở thực sự. Chúng tôi phải lao vào trú dưới một cái cổng. Đó là trận mưa đá khủng khiếp nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra được. Chỉ mới một lúc mà mặt phố đã phủ một lớp trắng xóa như giữa mùa đông. Những viên đá to bằng trứng chim bồ câu rơi xuống, đập ầm ầm xen lẫn tiếng vỡ của kính bị vỡ. Tất cả mọi thứ rơi đầy xuống phố, những viên ngói, những mảng lở thạch cao, những viên đá đen nát vụn.
- Trời ơi! Những tấm kính! Chị Étiennette kêu lên.
- Biết đâu cha đến được trước mưa đá thì sao?
- Ngay cả đến được cũng không kịp phủ chiếu rơm lên. Thế là toi hết cả rồi! Cha sẽ sạt nghiệp. Trời ơi! Cha cần số tiền đó biết bao nhiêu!
Tôi muốn hỏi chị Étiennette, nhưng chúng tôi hầu như không còn nghe thấy tiếng của nhau. Hơn nữa, trọng chị lúc ấy thật sầu não, khuôn mặt lo lắng, buồn thảm như người nhìn nhà mình bị cháy vậy.
Trận mưa đá khủng khiếp kéo dài độ năm sáu phút rồi đột ngột ngừng lại như lúc nó bắt đầu. Mây đen tan dần và chúng tôi có thể đi được. Trong phố, các viên đá lăn lông lốc như những viên cuội ở biển, chúng tạo thành một lớp dày đến nỗi ngập mắt cá chân.
Chúng tôi mau chóng về tới nhà. Cửa lớn vẫn để ngỏ. Khi chúng tôi bước vào vườn, quang cảnh mới hãi hùng làm sao. Tất cả đều bị đập vỡ tan tành. Căn vườn ban sáng đẹp là thế, nay không còn lại một chút gì.
Cha Acquin đang ở đâu?
Chúng tôi đi tìm nhưng không thấy ông đâu. Đến nhà kính, nơi mà không một miếng kính nào còn nguyên vẹn, chúng tôi.thấy ông quỵ người trên một chiếc ghế đẩu giữa đống đổ nát đầy mặt đất, Alexis và Benjamin đứng im cạnh ông.
- Ôi! Các con yêu quý của cha!
Thấy chúng tôi đến gần, ông ngẩng đầu lên.
Rồi ông ôm Lise trong tay mà khóc.
Ngay sau đó, tôi được biết, qua lời kể của chị Étiennette và hai cậu con trai, vì sao mà người cha thất vọng đến thế. Ông mua căn vườn này đã mười năm và tự tay xây lấy ngôi nhà. Người chủ bán đất cho vay tiền mua các vật dụng cần cho nghề trồng hoa của ông. Toàn bộ tiền sẽ trả trong mười lăm năm, mỗi năm trả một lần. Cho tới thời điểm trước trận mưa đá, cha Acquin vẫn trả nợ đúng kỳ hạn nhờ vào sự hăng say lao động và sự tiết kiệm chi li. Tuy nhiên, chỉ cần một đợt không trả tiền đúng hạn, thì ngay lập tức, tay chủ nợ sẽ nhân cơ hội đó để lấy lại đất, nhà và mọi vật liệu đồng thời chiếm giữ luôn số tiền đã thu mười năm trước. Đó là cách lão ta đầu tư, lão hy vọng trong mười lăm năm thế nào chẳng có ngày người cha không trả nổi, cho nên lão mới chịu đầu tư như thế.
Ngày đó cuối cùng đã đến, đến cùng với trận mưa đá ban chiều.
Bây giờ sẽ xảy ra chuyện gì đây?
Chúng tôi không phải phân vân lâu, chỉ một ngày sau hạn trả tiền hàng năm mà lẽ ra người cha đã trả được bằng tiền bán cây, chúng tôi thấy một gã mặc đồ đen đi vào nhà, đưa cho chúng tôi một tờ giấy có dán tem, trên đó viết vài chữ trong một dòng để trống.
Đó là ông mõ tòa.
Và kể từ ngày ấy ông ta cứ đến luôn, đến nỗi thuộc tất cả tên chúng tôi.
- Chào Rémi!... Ông ta nói... Chào Alexis! Cô khỏe chứ, cô Étiennette?
Và ông ta đưa cho chúng tôi tờ giấy dán tem.
Cha Acquin chạy khắp thành phố.
Ông đi đâu?
Có lẽ đến tòa án chăng?
Chỉ nghĩ đến đó tôi đã cảm thấy sợ hãi. Cụ Vitalis cũng đã phải ra tòa, và kết quả thế nào tôi đã rõ.
Đối với cha Acquin thì kết quả phải chờ lâu hơn.
Một phần mùa đông trôi qua như thế. Chúng tôi không còn tiền để có thể sửa chữa lại nhà kính và vì thế chúng tôi chỉ trồng rau và các loại hoa không phải che chắn, tuy không có lời lắm, nhưng cũng gọi là có công việc.
Một buổi tối, người cha trở về ủ rũ hơn mọi khi.
- Các con ơi!... Ông nói... Hết rồi...
Tôi định ra ngoài, tôi biết ông sắp nói một điều quan trọng mà có lẽ tôi không nên nghe.
Nhưng bằng một cử chỉ, ông giữ tôi lại.
- Con chẳng phải người trong gia đình hay sao?... Các con ơi! Cha sắp từ bỏ các con rồi.
Một tiếng kêu đau đớn thốt lên.
Lise nhảy vào vòng tay ông, vừa ôm hôn ông, vừa khóc.
- Ồ! Chẳng lẽ các con nghĩ cha cố tình bỏ những đứa con ngoan như thế này hay sao?
Nhưng cha bị kết tội không trả nổi tiền. Khi không có tiền, họ sẽ bán tất cả những thứ này đi, mà cho dù bán hết cũng không đủ trả hết nợ nần. Vì vậy, người ta bắt cha đi tù năm năm. Trong thời gian ấy các con sẽ ra sao?...
Mọi người im lặng.
- Rémi sẽ viết thư cho người em của cha là cô Catherine Suriot ở Dreuzy, giải thích cho cô rõ tình hình và mời cô đến đây. Đến khi đó, ta sẽ quyết định sẽ làm những gì trước khi đi tù.
Lần đầu tiên, tôi viết một bức thư, nhưng đáng buồn thay, nó lại đem đến một sự bắt đầu ác nghiệt.
Dầu sao, chúng tôi vẫn hy vọng. Cô Catherine sẽ đến, điều đó cũng là đủ đối với những đứa trẻ như chúng tôi.
Tuy nhiên, cô không đến nhanh như chúng tôi tưởng. Cảnh sát kinh tế, tức những người chuyên đi bắt các con nợ, đã đến trước cô.
Người cha đang định đi ra ngoài thì chạm trán họ, lúc đó có tôi đi cùng. Chỉ trong một giây, họ vây lấy chúng tôi. Ông tái xanh đi như bị choáng váng và bằng một giọng yếu ớt xin được ôm hôn các con.
- Đừng có khổ não quá ông bạn dũng cảm ạ!... Một trong những người lính gác nói... Đi tù nợ không đến nỗi kinh khủng lắm đâu.
Tôi đi tìm mấy anh em trai trong vườn.
Khi chúng tôi trở lại, người cha đang bế Lise trong tay, em khóc sướt mướt.
Một trong những người lính gác thì thầm vào tai ông cái gì đó tôi nghe không rõ.
- Phải... Người cha nói... Ông nói đúng, phải thế thôi.
Rồi đột ngột đứng lên, ông đặt Lise xuống đất, nhưng em cứ bấu chặt lấy ông không rời bàn tay ông ra. Cha Acquin lần lượt ôm hôn Étiennette, Alexis và Benjamin.
Tôi đứng trong một góc, mắt mờ đi vì nước mắt.
Ông gọi tôi:
- Còn con, Rémi, con không đến ôm hôn cha ư? Con không phải là con của cha sao?
Nhìn quanh các con mình một lần cuối, cha Acquin chỉ kịp thốt lên:
- Các con cứ đứng đấy, đừng đi theo cha. Cha ra lệnh đấy.
Và ông vội vàng rời bỏ chúng tôi sau khi đặt bàn tay Lise vào tay chị Étiennette.
Chúng tôi sững sờ đứng giữa bếp, ai cũng khóc. Chị Étiennette, người xưa nay vốn can đảm là thế, người vẫn thường nâng đỡ tinh thần chúng tôi, nay đến lượt mình cũng phải quỵ, cũng yếu đuối như chúng tôi.
Chúng tôi vẫn biết thế nào cũng có ngày này, nhưng chúng tôi đều nghĩ cô Catherine lúc đó sẽ có mặt. Nhưng cô Catherine đã không kịp đến. Cô đến sau khi người cha bị giải đi độ một giờ và nhìn thấy tất cả chúng tôi im lặng ở trong bếp, không ai nói với ai một lời.
Cô Catherine là một người đàn bà cương nghị, đã từng làm vú nuôi ở Paris mười năm. Cô hiểu những khó khăn ở đời này. Chúng tôi nhẹ hẳn người khi được nghe cô ra lệnh, được vâng lời cô.
Đối với một người đàn bà nông thôn không của cải gì, phải gánh vác một trách nhiệm như vậy, quả thật là nặng nề.
Ngay ngày hôm sau, cô đến hỏi ý kiến một công chứng viên, cha của một đứa bé mà cô nuôi trước kia, để quyết định số phận chúng tôi trong thời gian ông Acquin đi tù. Sau đó, cô đến nhà tù để nhất trí với người cha.
Tám ngày sau khi đến Paris, cô cho chúng tôi biết quyết định này như thế nào.
Vì chúng tôi còn nhỏ quá để tự đi làm, nên mỗi một người sẽ đến ở với một trong các người bà con: Lise được giao cho cô Catherine ở Morvan chăm sóc, Alexis về nhà một người chú ở Varses, Benjamin ở nhà một ông chú khác làm vườn ở Saint - Quentin, chị Étiennette ở nhà một người cô ở Esnandes.
Tôi nghe những sự xếp đặt đó, chờ đến lượt mình.
Nhưng vì cô Catherine không nói gì thêm, tôi bèn tiến lên hỏi:
- Còn cháu thì sao ạ?
- Cháu ư? Cháu có phải người trong gia đình đâu?!
- Cháu làm việc cho gia đình.
- Nhưng cháu không phải người trong gia đình.
- Có chứ, có chứ, anh ấy là người trong gia đình. Tất cả đều nói.
Lise tiến tới trước mặt người cô, hai tay chắp lại, cử chỉ đó còn nói lên nhiều hơn những lời nói dài dòng.
- Cháu bé nhỏ tội nghiệp ơi!... Cô Catherine nói... Cô hiểu cháu lắm. Nhưng ở đời này, không phải việc gì người ta muốn đều có thể làm được. Chỉ riêng cho gia đình không thôi, miếng bánh đã quá nhỏ rồi.
Tôi cảm thấy không làm gì hơn được. Điều cô Catherine nói chỉ quá đúng mà thôi.
Cô Catherine cho chúng tôi biết ngày mai sẽ chia tay, rồi cô cho chúng tôi đi ngủ.
Vừa vào đến phòng, tất cả mọi người đều vây quanh tôi, Lise sà vào tôi mà khóc. Tôi hiểu rằng, tuy ai nấy đều buồn vì phải xa cách nhau, nhưng họ vẫn luôn nghĩ đến tôi, phàn nàn cho tôi, tôi cảm thấy mình đúng là anh em ruột của họ.
- Các anh chị nghe em nói này... Tôi xúc động... Em thấy rõ là các anh chị coi em như người trong gia đình vậy.
- Đúng thế! Bao giờ em cũng là em, anh ruột của chúng tôi. Họ nói.
- Được, thế thì em sẽ tỏ ra cho các anh chị thấy, em cũng là một thành viên trong gia đình. Em sẽ lại lấy tấm da cừu và cây đàn hác-pơ xuống, em sẽ đi từ Saint - Quentin tới Varses, từ Varses tới Esnandes, từ Esnandes đến Dreuzy và như thế, em sẽ có cơ hội thăm lần lượt tất cả các anh chị. Em vẫn còn nhớ các bài hát, các điệu nhạc, em sẽ tự kiếm sống.
Trên nét mặt mọi người lộ rõ sự hài lòng. Tôi biết, ý nghĩ của tôi cũng là khát vọng của mỗi người.
Chúng tôi cứ nói về dự định đó mãi. Rồi chị Étiennette muốn chúng tôi vào giường, nhưng nào có ai ngủ được đêm hôm ấy.
Ngay từ sáng sớm, Lise đã đưa tôi ra vườn và làm tôi hiểu rằng em muốn tôi tới thăm những người khác trước em, để em biết được tin tức của tất cả mọi người.
Họ phải ra đi lúc tám giờ sáng, cô Catherine đã thuê một chiếc xe ngựa. Trước tiên, mọi người sẽ vào nhà tù để giã từ ông Acquin, sau đó đem theo bọc hành lý của từng người một ra ga. Tới bảy giờ đến lượt chị étiennette đưa tôi ra vườn.
- Chị muốn để lại cho em một kỷ niệm, đó là bộ đồ của người nội trợ. Trong này, em sẽ tìm thấy kim, chỉ, kéo, những thứ mà em cần đấy.
Trong khi chị Étiennette nói chuyện với tôi thì Alexis cứ quẩn quanh ở chỗ chúng tôi. Chị vào nhà xong thì Alexis lại gần tôi.
- Anh có hai đồng một trăm xu... Alexis nói... Anh sẽ rất vui nếu như em nhận một đồng anh tặng.
Trong năm chúng tôi, Alexis là người duy nhất có ý thức về tiền. Chúng tôi vẫn thường chế nhạo thói hà tiện của anh. Việc anh cho tôi tiền làm tôi xúc động quá. Tôi muốn từ chối nhưng anh cứ ép mãi, buộc lòng tôi phải nhận. Qua đó phải thấy là tình cảm của anh đối với tôi thật mạnh mẽ.
Benjamin cũng không quên tôi, anh cho tôi một con dao đổi lấy một xu, bởi vì anh nghe nói "dao là thứ cắt đứt tình bạn".
Thời gian trôi nhanh quá.
Đến lúc nghe tiếng xe ngựa lại gần. Lise từ phòng cô Catherine bước ra và ra hiệu cho tôi theo em. Trong vườn chúng tôi có một cây hoa hồng Băng-gan ở một góc hẻo lánh. Lise đi về phía cái cây, cắt một cành hồng rồi chia cành hồng đó làm hai nhánh, mỗi bên có một nụ hoa hàm tiếu, rồi trao cho tôi một nhánh.
A! Tiếng nói của đôi môi thật chẳng nghĩa lý gì so với tiếng nói của đôi mắt! So với cái nhìn thì lời nói thật lạnh nhạt và trống rỗng biết bao!
- Lise! Lise! Người cô gọi.
Các bọc quần áo đã đem lên xe cả rồi.
Tôi cầm lấy cây đàn, gọi Capi. Nó nhảy lên mừng rỡ, vì hiểu rằng chúng tôi lại lên đường. lại được tự do đi đó đây.
Cuối cùng, giờ phút chia tay cũng đã đến.
- Các anh chị hôn cha hộ em với nhé! Tôi kêu lên.
Một tiếng nức nở làm giọng tôi nghẹn lại.
Xe ngựa đi mất.
Thế là hết.
Một người láng giềng chịu trách nhiệm đóng cửa căn nhà, ông ta làm tôi tỉnh nỗi sững sờ:
- Cháu không ở lại đây ư? Ông ta hỏi.
- Không ạ, cháu đi.
- Đi đâu?
- Cháu cứ thẳng trước mặt mà đi thôi.
Có lẽ ông làm một động tác vì tình thương, bởi vì ông chìa tay cho tôi:
- Nếu cháu muốn ở lại đây..., ông ta nói,... thì bác sẽ giữ cháu, nhưng không có lương.
Tôi cảm ơn , nhưng lịch sự từ chối lời đề nghị của ông.
Tôi đeo dây đàn lên vai, rồi khoát tay và nói:
- Đi nào, Capi!
Capi nhảy lên trước mặt tôi sủa vang.
Mặt trời đã lên cao, trời trong vắt và ấm áp.
Một cuộc đời mới mở ra trước mặt tôi.
Tôi chỉ là một đứa trẻ mà đã là chủ mình!
Hỡi ôi! Hoàn cảnh tôi thật đáng buồn.
Mặc dầu còn nhỏ nhưng tôi đã phải chịu nhiều bất hạnh, để rồi trở nên thận trọng và khôn ngoan hơn những đứa trẻ bình thường ở tuổi tôi. Đó là một lợi thế mà tôi đã phải trả bằng một giá đắt.
Vì vậy, trước khi lao mình vào con đường mở ra trước mặt tôi, tôi muốn đi thăm con người mà trong những năm qua, đối với tôi, ông đã như là một người cha. Cô Catherine không đem tôi theo cùng các con ông để tôi từ biệt ông, thì tôi sẽ đi một mình đến ôm hôn ông vậy.
Chưa bao giờ tới nhà tù, nhưng thời gian gần đây tôi đã nghe nói đến nó khá nhiều nên chắc chắn là có thể tìm được.
Buộc Capi vào một sợi dây thừng, tôi dắt nó đi đến nhà tù Clichy.
Tôi ngừng lại một lúc trước khi dám vào, tưởng như mình vào đó sẽ bị bắt giữ. Tôi vẫn hình dung ra khỏi nhà tù rất khó, và khi đến nhà tù này, tôi lại biết thêm rằng, muốn vào cũng chẳng dễ chút nào.
Cuối cùng, không chịu để người ta không cho mình vào, đuổi mình về, tôi đã gặp được người tôi muốn gặp.
Người ta đưa tôi vào một hành lang không thanh chắn, không chấn song sắt như tôi đã nghĩ và ngay sau đó, nhìn thấy cha Acquin đi ra cũng không bị xích xiềng như tôi hằng tưởng tượng.
- Cha đang chờ con đây Rémi ạ... Ông bảo tôi... Cha đã mắng Catherine sao không đưa con tới.
Mấy đưa nhỏ nói với cha là con trở lại nghề hát. Con đã quên mình suýt chết vì đói và rét ở cửa nhà ta rồi chăng?
Nếu tôi từ bỏ cuộc đời đó thì chỉ còn một cách là ở cố định một chỗ nào. Nhưng nếu làm vậy, tôi sẽ thất hứa với chị Étiennette, Alexis, Benjamin và Lise. Thực tế chị Étiennette, Alexis và Benjamin chẳng cần nhờ tôi, họ có thể viết thư cho nhau. Nhưng còn Lise thì sao, em không biết viết, cả cô Catherine cũng vậy. Nếu tôi không đến thăm Lise, em sẽ hoàn toàn bị bỏ rơi.
Em sẽ nghĩ về tôi thế nào?
- Thế chẳng lẽ cha không muốn con cho cha biết tin tức của các anh chị em con hay sao? Tôi nói.
- Chúng có nói với cha về chuyện đó... Nhưng không phải chỉ vì nghĩ đến mình mà cha muốn con từ bỏ cuộc đời người hát rong.
- Chính vì vậy đấy cha ạ, nếu con từ bỏ cam kết mà con đã hứa, thì điều đó có nghĩa con không nghĩ đến Lise.
Ông nhìn tôi rất lâu rồi đột nhiên nắm lấy hai bàn tay tôi:
- Con trai của cha, cha sẽ ôm hôn con vì lời nói đó. Con là một đứa trẻ có tâm.
Chỉ có hai chúng tôi ở trong hành lang, chúng tôi ngồi bên nhau trên một chiếc ghế dài, tôi lao vào tay ông.
- Cha chỉ muốn nói với con một lời này nữa thôi... Người cha nói tiếp... Thôi đành nhờ Trời!
Và cả hai chúng tôi ngồi im lặng...
Rồi thời gian gian thăm tù đã hết, đã tới lúc chúng tôi phải chia tay.
Bỗng nhiên, ông lục túi áo gi-lê lôi ra một chiếc đồng hồ quả quýt to, có dây da buộc vào khuyết áo.
- Chẳng nhẽ ta chia tay nhau mà con lại không mang theo một kỷ vật nào của cha? Đây là chiếc đồng hồ của cha. Cha cho con. Nó chẳng có giá trị gì lớn lắm, nếu đáng giá, cha đã bán đi rồi. Nó chạy không được tốt, thỉnh thoảng lại phải lấy ngón tay đẩy. Nhưng lúc này, cha chỉ còn có thế.
Nói xong, ông đặt chiếc đồng hồ vào tay tôi. Rồi thấy tôi có vẻ muốn từ chối một món quà tặng quý đến thế, ông buồn bã nói thêm:
- Ở đây, cha không cần xem giờ, thời gian chỉ trôi quá chậm mà thôi... Vĩnh biệt con, Rémi bé nhỏ của cha!
Và ông cầm tay tôi dắt ra cửa.
Tôi cảm động khôn xiết.
Tôi đứng trên phố khá lâu, rất lâu là khác, không biết nên đi sang trái hay sang phải và có lẽ tôi còn đứng như thế cho đến đêm nếu như.tay tôi không bất ngờ chạm vào một vật tròn cứng.
Một cách máy móc và cũng không hiểu mình làm gì, tôi sờ vào nó, hóa ra cái đồng hồ mà cha Acquin vừa cho tôi.
Đúng giữa trưa.
Đột bhie6n, Capi kéo ống quần tôi. Nó sủa lên vui mừng.
- Mày muốn gì, Capi?
Nó nhìn tôi, chờ đợi mấy phút, rồi vươn người lên đặt chân vào cái túi có chiếc đồng hồ. Thì ra nó muốn xem giờ để nói với "cử tọa đáng kính" như thời làm việc cùng cụ Vitalis.
Tôi cho nó xem. Nó nhìn khá lâu như cố nhớ lại, rồi bắt đầu vẫy đuôi, sủa lên mười hai tiếng. Thế là nó vẫn không quên.
A! Chúng tôi sẽ kiếm được tiền với cái đồng hồ này đây! Thêm một điều tôi không tính đến.
Vì chuyện này diễn ra giữa phố ngay cửa nhà tù, có nhiều người đứng lại tò mò nhìn chúng tôi. Giá mà dám thì tôi đã chơi ngay một buổi biểu diễn, nhưng vì sợ cảnh sát nên tôi thôi.
Nghề của tôi lúc này cần nhất là một cái bản đồ nước Pháp và tôi biết người ta bán nó dưới kè sông. Tôi quyết định mua một cái bèn đi về hướng đó.
Tới nhà thờ Saint - Médard, tôi nhận ra đứa trẻ đang đứng dựa vào tường nhà thờ, đứa trẻ kỳ lạ mà tôi đã nhìn thấy ở nhà Garifoli, vẫn đôi mắt ướt ấy, vẫn vẻ dịu dàng nhẫn nhục ấy.
Tôi lại gần. Dường như nó cũng nhận ra tôi, liền hỏi:
- Có phải anh đến nhà Garifoli cùng với cụ già râu bạc trước hôm tôi vào bệnh viện không nhỉ?
- Tôi đấy. Garifoli vẫn là chủ anh à?
- Người ta đã bắt hắn rồi vì hắn đánh một đứa trẻ nhiều quá đến nỗi nó chết.
Lần đầu tiên tôi thấy nhà tù có ích.
- Bọn trẻ con thì sao? Tôi hỏi.
- À! Tôi có biết gì đâu. Tôi vào bệnh viện vì thằng cha Garifoli đối xử với tôi tệ quá đến nỗi tôi ốm. Ở bệnh viện ra, tôi về lại chỗ Garifoli thì chẳng còn ai. Một người hàng xóm kể lại cho tôi nghe những điều tôi vừa nói với anh. Thành ra tôi mới ở đây, không biết đi đâu, không biết làm gì.
Tôi không giàu có gì, nhưng tôi đủ để làm cho thằng bé này không đến nỗi chết đói. Tôi chạy đến cửa hàng bánh mì, rồi quay về đưa nó một cái bánh mì tròn. Nó vồ lấy nhai ngấu nghiến.
- Còn bây giờ anh định làm gì? Tôi hỏi nó.
- Tôi không biết. Tôi đang định bán cây vĩ cầm đi. Lẽ ra tôi đã bán rồi nếu như việc xa nó không làm cho tôi buồn bã quá. Cây vĩ cầm này là niềm vui, niềm an ủi của tôi. Những lúc buồn, tôi tìm một chỗ khuất, rồi kéo đàn. Lúc ấy, tôi nhìn thấy tất cả những thứ đẹp đẽ ở trên đời này, còn đẹp hơn cả trong mơ nữa.
- Thế sao anh không kéo đàn trong phố?
- Tôi đã chơi đàn trong phố rồi đấy chứ, nhưng chẳng ai cho tiền cả. Còn anh thì sao?
Anh làm gì?
Không hiểu tình cảm khoe khoang trẻ thơ nào đã gây cảm hứng cho tôi:
- Tôi là chủ gánh hát. Tôi nói.
- Ồ! Thế anh có cho tôi nhập vào gánh được không? Tên tôi là Mattia. Thằng bé nói.
- Nhưng cả gánh hát của tôi chỉ có thế này. Tôi chỉ vào Capi.
- Cần gì! Ta có hai người. Ôi! Xin anh, đừng bỏ rơi tôi, tôi sẽ ra sao? Tôi làm việc được, chơi vĩ cầm được, làm trật khớp được, nhảy dây được, chui qua vòng được, hát được, anh muốn gì tôi làm nấy! Tôi không yêu cầu tiền, chỉ mong có cái ăn. Tôi mà làm tồi anh cứ việc đánh tôi, chỉ xin anh một điều. Đừng đánh vào đầu.
Nghe Mattia tội nghiệp nói vậy, tôi chỉ muốn khóc.
- Được. Tôi bảo nó.
Lập tức nó cầm lấy bàn tay tôi, rồi hôn lên đó. Nước mắt tôi dâng lên.
- Đi theo tôi, như một người bạn ấy! Tôi bảo.
Và xóc lại chiếc dây đeo đàn hác-pơ trên vai:
- Tiến lên!
Chỉ một khắc đồng hồ sau, chúng tôi ra khỏi Paris.
Gió hanh tháng ba làm đường khô ráo, việc đi bộ cũng trở nên dễ dàng hơn. Khí trời dịu, mặt trời rực rỡ trên bầu trời trong xanh không một gợn mây. Thật khác biệt biết bao so với cái ngày tuyết rơi mà tôi vào Paris, nơi tôi đã từng xem như một vùng đất hứa. Cuộc du hành của chúng tôi khởi đầu thật đẹp, tôi sải bước trên con đường vang tiếng bước chân với đầy niềm tin. Capi, được tháo dây buộc, chạy quanh chúng tôi, bất cứ cái gì và chẳng làm sao cũng sủa. Có lẽ nó chỉ vì thích mà sủa.
Bên cạnh tôi, Mattia đi trong yên lặng.
Tôi đã hứa với Lise đi gặp hai anh và chị Étiennette của em trước, nhưng tôi không cam kết sẽ thăm ai đầu tiên: Benjamin, Alexis hay chị Étiennette? Tôi đến thăm ai trước tiên sẽ do tôi chọn, nghĩa là tôi có thể đi Cévennes, Charente hoặc Picardie.
Vì tôi ra khỏi Paris về phía nam, tôi chỉ còn chọn hoặc Alexis hoặc chị Étiennette.
Một trong những lý do làm tôi muốn đi xuống phía nam trước, đó là vì mong gặp má Barberin.
Nếu như đã từ lâu tôi không nói tới má, không có nghĩa là tôi đã quên má. Cũng không nên tưởng rằng tôi là kẻ vô ơn, đã không viết thư cho má.
Biết bao lần tôi đã định viết cho má để bảo với má như thế này: "Con luôn nghĩ đến má và yêu má với cả tấm lòng con". Nhưng, một phần vì má không biết đọc, phần khác, nỗi sợ lão Bar-berin kìm tay tôi lại.
Nếu Barberin nhờ thư tôi mà biết tôi ở đâu, hắn có bắt lại tôi chăng? Rồi lại đem bán tôi đi lần nữa chăng? Có lẽ lão có quyền làm việc đó.
Nghĩ đến đó, thà tôi bị má Barberin buộc tội là vô ơn còn hơn vô phúc lại rơi vào quyền hành của lão Barberin.
Nhưng bây giờ khi mà tôi muốn đi đâu thì đi, tôi có thể gặp lại má lắm chứ. Hơn nữa, vì đã thu nhận Mattia vào "gánh hát" của tôi, tôi thấy vấn đề này cũng dễ thôi. Tôi có thể cử Mattia vào trước, tôi khôn ngoan lùi lại sau. Nó sẽ lấy cớ gì đó vào nhà má Barberin. Nếu má có một mình, nó sẽ kể sự thực cho má nghe, rồi ra báo cho tôi biết. Khi đó, tôi sẽ vào căn nhà nơi trôi qua tuổi ấu thơ của tôi để sà vào vòng tay thân yêu của má. Còn nếu như lão Barberin đang ở nhà thì Mattia sẽ đề nghị má Barberin đến một chỗ đã hẹn trước, để tôi được ôm hôn má.
Vừa đi tôi vừa xây dựng cả một kế hoạch như vậy.
Lúc này, chúng tôi đang ở giữa chốn đồng quê nên có thể nghỉ chân một lúc. Tôi bảo Mattia:
- Nếu anh muốn, chúng ta sẽ nghỉ một chút.
- Vâng nhưng tôi muốn xin anh xưng hô cậu, tớ với tôi.
- Tôi muốn thế lắm.
Thế là nó cười, một cái cười chân thành dịu dàng giơ hết cả răng ra, bộ răng trắng ngà trên khuôn mặt rám nắng.
Tôi lấy bản đồ ra, trải trên cỏ. Tôi định hướng khá lâu, cuối cùng vạch ra hành trình của mình như sau: Corbeil, Fontainebleau, Montargis, Gien, Bourges, Saint - Amand, Montlucon. Có thể tới Chavanon được và nếu gặp chút may mắn thì dọc đường chúng tôi sẽ không chết đói.
Trong khi tôi nghiên cứu bản đồ, Mattia quan sát tôi một cách chăm chú.
- Cậu biết đọc ư?
- Có chứ. Thế còn cậu, cậu không biết đọc à?
- Không.
- Thế có muốn học không?
- Ồ! Có chứ.
- Được, thế thì tớ sẽ dạy cậu.
Mở cái túi ra, tôi bỗng có ý nghĩ xem thử ở trong có những thứ gì. Tôi bèn bày cả ra trên cỏ. Tôi có ba áo sơ mi bằng vải toan, ba đôi tất, năm khăn tay, tất cả đều còn rất mới, và một đôi giày đã bắt đầu cũ.
Mattia lóa mắt.
- Còn cậu, cậu có những gì nào? Tôi hỏi nó.
- Cây đàn và bộ quần áo mặc trên người.
- Được!...Tôi nói... Ta sẽ chia ra, vì ta là bạn mà. Cậu sẽ có hai áo sơ mi, hai đôi tất, ba khăn tay. Có điều là mỗi đứa sẽ đeo cái túi trong một giờ đồng hồ.
Mattia muốn từ chối phần đầu của lời đề nghị, nhưng tôi đã có thói quen chỉ huy, tôi không cho nó cãi lại.
Tôi bày cái túi nội trợ mà chị Étiennette cho tôi trên mấy chiếc áo sơ mi, cả cái hộp đựng bông hoa hồng của Lise nữa. Mattia tò mò, muốn mở cái hộp ra, nhưng tôi không cho phép và cất cái hộp đó vào túi.
- Nếu cậu muốn làm vui lòng tớ,... tôi bảo nó,... thì đừng bao giờ mở cái hộp này ra. Đó là một quà tặng.
Từ khi trở lại khoác tấm da cừu và khoác cây đàn hác-pơ, có một điều làm tôi khá lúng túng, đó là chiếc quần của tôi. Nghệ sĩ không.mặc quần dài. Để xuất hiện trước công chúng phải mặc quần cụt, đi tất, trên có buộc chéo những sợi ruy-băng.
Tôi bèn mở cái túi nội trợ của chị Étiennette ra, cầm lấy cái kéo.
- Trong khi tớ sửa cái quần,... tôi bảo Mattia,... cậu cho tớ biết tài nghệ chơi vĩ cầm của cậu nào.
Nó cầm lấy đàn và bắt đầu chơi.
Trong thời gian đó tôi dũng cảm đưa mũi kéo vào cắt quần.
Thoạt đầu tôi vừa cắt quần vừa nghe Mattia, nhưng rồi chẳng mấy chốc, tôi dừng hẳn lại, dỏng tai lên nghe. Mattia chơi vĩ cầm chẳng kém gì cụ Vitalis.
Tôi vừa vỗ tay vừa hỏi nó:
- Ai dạy cậu đàn thế?
- Mỗi người một tí, chủ yếu tự học trong khi làm việc. Tớ chơi những gì nghe được ở người khác.
Đến lượt tôi, tôi cũng muốn tỏ cho Mattia biết mình cũng là một tay chơi nhạc không tồi. Cầm lấy cây đàn hác-pơ, tôi hát một khúc mà tôi yêu thích.
Thế là, như giữa những nghệ sĩ với nhau, Mattia đáp lại lời ca của tôi bằng những cái vỗ tay.
Nhưng, sau khi chơi nhạc cho vui cũng phải nghĩ đến chơi nhạc để có cơm chiều, có chỗ ngủ nữa chứ. Chúng tôi lại lên đường.
- Cậu dạy tớ bài hát của cậu đi... Mattia nói... Ta sẽ cùng hát. Tớ nghĩ chẳng bao lâu tớ sẽ đệm vĩ cầm được, như thế rất hay.
Sau Villejuif, chúng tôi đến một ngôi làng nọ. Khi qua cổng một cái trại, chúng tôi thấy trong sân đầy người: đang có đám cưới.
Tôi chợt có ý nghĩ họ cần có người chơi đàn để nhảy, thế là tôi bước vào, theo sau là Mattia và Capi. Tay ngả mũ chào thật cung kính, tôi đề nghị với người đầu tiên gặp trên đường vào.
Đó là một chàng thanh niên to lớn có vẻ dễ chịu, tính tình điềm đạm.
- Này, các vị ơi!... Anh ta gọi... Các vị nghĩ sao nếu có chút nhạc? Ta đứng vào nhảy ca-đri nào!
Chỉ vài phút sau ai nấy đứng thành từng nhóm ở giữa sân để nhảy.
- Cậu có chơi được điệu nhảy ca-đri không? Tôi hỏi khẽ Mattia vì tôi khá lo lắng.
- Được.
Nó kéo thử đàn vĩ cầm cho tôi nghe, may mà tôi cũng biết điệu ấy. Thế là chúng tôi thoát hiểm.
Người ta đem một cái xe bò từ trong nhà để xe ra, cho chúng tôi lên đó. Tuy chưa hòa nhạc với nhau bao giờ, nhưng chúng tôi cùng chơi điệu nhảy ca-đri không đến nỗi dở. Cũng may chúng tôi chơi ở đây cho những đôi tai không sành nhạc, cũng không khó tính lắm.
- Có cậu nào trong hai cậu biết chơi kèn đẩy coóc-nê không nhỉ? Anh thanh niên to lớn hỏi chúng tôi.
- Có, có... Mattia trả lời,... nhưng tôi không có kèn.
- Để tôi đi kiếm. Vĩ cầm thì hay thật đấy, nhưng hơi nhạt nhẽo.
- Cậu chơi cả kèn đẩy nữa cơ à? Tôi hỏi Mattia.
- Cả kèn tơ-rôm-pét có rãnh, cả sáo, tất cả các nhạc cụ.
Quả thằng bé đáng quý thật.
Chẳng mấy chốc kèn coóc-nê được mang đến, chúng tôi lại cùng chơi khúc nhảy ca-đri, pôn-ka, van-xơ... cứ như thế cho đến tối.
Chúng tôi mệt rã rời. Cô dâu xuất hiện.
- Thôi thôi!... Cô nói... Hai đứa trẻ không đàn nổi nữa rồi. Chuẩn bị đặt tay vào túi tiền đi nào.
- Nếu cô cho phép,... tôi nói với cô,... chúng tôi sẽ cho thủ quỹ của chúng tôi đi thu tiền ạ.
Tôi ném cái mũ của mình cho Capi, nó ngậm vào mõm. Mọi người vỗ tay rầm rập khi thấy nó duyên dáng chào người ta mỗi khi người ta cho tiền, nhưng điều đáng giá hơn đối với chúng tôi là người ta cho nhiều lắm. Tôi theo dõi thấy những đồng bạc trắng xóa rơi xuống mũ, cuối cùng chú rể bỏ vào một đồng năm phrăng.
Chưa phải đã hết. Người ta mời chúng tôi vào bếp ăn cơm và cho chúng tôi ngủ trong vựa thóc.
Sáng hôm sau, khi rời căn nhà mến khách đó chúng tôi có vốn liếng là hai mươi tám phrăng. Cả một tài sản!
- Nhờ cậu mà có đấy, Mattia ạ. Tôi bảo bạn tôi.
- Một mình tớ thì làm sao thành ban nhạc được.
Chúng tôi lại lên đường, lòng thênh thang đầy hy vọng. Cuối cùng tương lai mỉm cười với chúng tôi chăng?
Không bao giờ Étiennette đi ngủ trước khi ông về, muộn mấy thì muộn.
Lúc đó, nếu tôi còn thức, hoặc tiếng ông về làm tôi thức giấc, từ phòng tôi, tôi nghe tiếng hai cha con trao đổi với nhau.
- Sao con không đi ngủ đi? Người cha nói.
- Vì con muốn biết cha có cần gì không?
- Thấy cha không về ăn tối Lise có nói gì không?
- Nó cứ nhìn vào chỗ cha mãi.
- Em nó đã ngủ chưa?
- Nó mới đi ngủ độ mười lăm phút thôi, nó cứ muốn chờ cha.
Sau một lát im lặng, tôi nghe thấy ông Acquin nói:
- Étiennette này, con là cô con gái ngoan. Nghe cha bảo đây, ngày mai, cha đến Louisot, cha thề với con sẽ về ăn tối.
Hứa như vậy, nhưng rồi đâu lại vào đấy, ông vẫn không về sớm hơn chút nào một khi đã nhận một ly rượu.
Nhưng không phải thường thường như vậy.
Hơn nữa thời kỳ chọn cây cũng không lâu lắm, hết thời kỳ đó ông Acquin không đi ra ngoài nữa.
Sau mùa quế trúc, gia đình Acquin ngay lập tức chuyển sang trồng hoa cho những ngày lễ lớn, vào tháng bảy nhưng nhất là vào tháng tám, tháng có ngày lễ Sainte - Marie và Saint - Louis. Để có kịp hoa phục vụ những ngày đó, chúng tôi chuẩn bị hàng nghìn cây cúc sao Trung Quốc, cây vãn anh, cây trúc đào, tất cả những gì khung vườn và nhà kính của chúng tôi chứa nổi. Phải làm sao cho hoa nở đúng vào những ngày nói trên. Ai cũng biết điều đó đòi hỏi tài năng, vì ai mà làm chủ được thời tiết, được mặt trời! Cha Acquin còn hơn cả bậc thầy về nghệ thuật này.
Mùa hoa của chúng tôi được tiên báo là sẽ tuyệt vời.
Đến ngày mồng năm tháng tám thì toàn bộ cây chúng tôi trồng đã đến độ ra hoa. Chúng tôi đã làm việc vô cùng vất vả, không có lấy một giờ nghỉ ngơi kể cả ngày chủ nhật. Tuy nhiên, vì tất cả đã đâu vào đấy, nên để thưởng công cho chúng tôi, hôm ấy chúng tôi được đi ăn tối ở Arcueil tại nhà một người bạn của người cha, cả Capi cũng được tham dự. Chúng tôi làm việc cho tới tận ba, bốn giờ chiều hôm đó rồi mới đi.
Thực hiện đúng lời hứa, vài phút trước bốn giờ, người cha quay chìa trong ổ khóa cửa lớn và vui vẻ nói:
- Cả nhà lên đường nào!
Chúng tôi thảy đều lộng lẫy trong những bộ quần áo đẹp. Thời gian trôi nhanh đến nỗi tôi không nhận ra nữa. Tôi chỉ biết là, vào cuối bữa ăn, một người trong bọn chúng tôi có nhận xét là trời đầy mây đen, và vì bàn ăn được dọn ngoài trời dưới một cây cơm cháy to, chúng tôi dễ dàng thấy ngay sắp có bão.
- Các con ơi, phải mau mau về, gió mà nổi lên có thể lật nhào các tấm che. Lên đường thôi!
Chúng tôi đều biết các tấm che lắp kính là cả tài sản của những người làm vườn, gió mà đập vỡ kính thì họ sạt nghiệp.
- Cha đi trước đây... Ông Acquin nói... Cả Benjamin và Alexis nữa, đi theo cha.
Chị Étiennette và tôi cùng đưa Lise về sau. Em còn nhỏ nên không thể đi nhanh.
Liệu chúng tôi có đến nhà trước cơn bão được không?
Bỗng nhiên, mưa đá bắt đầu rơi xuống, lúc đầu chỉ vài viên, sau tới tấp như một trận đá lở thực sự. Chúng tôi phải lao vào trú dưới một cái cổng. Đó là trận mưa đá khủng khiếp nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra được. Chỉ mới một lúc mà mặt phố đã phủ một lớp trắng xóa như giữa mùa đông. Những viên đá to bằng trứng chim bồ câu rơi xuống, đập ầm ầm xen lẫn tiếng vỡ của kính bị vỡ. Tất cả mọi thứ rơi đầy xuống phố, những viên ngói, những mảng lở thạch cao, những viên đá đen nát vụn.
- Trời ơi! Những tấm kính! Chị Étiennette kêu lên.
- Biết đâu cha đến được trước mưa đá thì sao?
- Ngay cả đến được cũng không kịp phủ chiếu rơm lên. Thế là toi hết cả rồi! Cha sẽ sạt nghiệp. Trời ơi! Cha cần số tiền đó biết bao nhiêu!
Tôi muốn hỏi chị Étiennette, nhưng chúng tôi hầu như không còn nghe thấy tiếng của nhau. Hơn nữa, trọng chị lúc ấy thật sầu não, khuôn mặt lo lắng, buồn thảm như người nhìn nhà mình bị cháy vậy.
Trận mưa đá khủng khiếp kéo dài độ năm sáu phút rồi đột ngột ngừng lại như lúc nó bắt đầu. Mây đen tan dần và chúng tôi có thể đi được. Trong phố, các viên đá lăn lông lốc như những viên cuội ở biển, chúng tạo thành một lớp dày đến nỗi ngập mắt cá chân.
Chúng tôi mau chóng về tới nhà. Cửa lớn vẫn để ngỏ. Khi chúng tôi bước vào vườn, quang cảnh mới hãi hùng làm sao. Tất cả đều bị đập vỡ tan tành. Căn vườn ban sáng đẹp là thế, nay không còn lại một chút gì.
Cha Acquin đang ở đâu?
Chúng tôi đi tìm nhưng không thấy ông đâu. Đến nhà kính, nơi mà không một miếng kính nào còn nguyên vẹn, chúng tôi.thấy ông quỵ người trên một chiếc ghế đẩu giữa đống đổ nát đầy mặt đất, Alexis và Benjamin đứng im cạnh ông.
- Ôi! Các con yêu quý của cha!
Thấy chúng tôi đến gần, ông ngẩng đầu lên.
Rồi ông ôm Lise trong tay mà khóc.
Ngay sau đó, tôi được biết, qua lời kể của chị Étiennette và hai cậu con trai, vì sao mà người cha thất vọng đến thế. Ông mua căn vườn này đã mười năm và tự tay xây lấy ngôi nhà. Người chủ bán đất cho vay tiền mua các vật dụng cần cho nghề trồng hoa của ông. Toàn bộ tiền sẽ trả trong mười lăm năm, mỗi năm trả một lần. Cho tới thời điểm trước trận mưa đá, cha Acquin vẫn trả nợ đúng kỳ hạn nhờ vào sự hăng say lao động và sự tiết kiệm chi li. Tuy nhiên, chỉ cần một đợt không trả tiền đúng hạn, thì ngay lập tức, tay chủ nợ sẽ nhân cơ hội đó để lấy lại đất, nhà và mọi vật liệu đồng thời chiếm giữ luôn số tiền đã thu mười năm trước. Đó là cách lão ta đầu tư, lão hy vọng trong mười lăm năm thế nào chẳng có ngày người cha không trả nổi, cho nên lão mới chịu đầu tư như thế.
Ngày đó cuối cùng đã đến, đến cùng với trận mưa đá ban chiều.
Bây giờ sẽ xảy ra chuyện gì đây?
Chúng tôi không phải phân vân lâu, chỉ một ngày sau hạn trả tiền hàng năm mà lẽ ra người cha đã trả được bằng tiền bán cây, chúng tôi thấy một gã mặc đồ đen đi vào nhà, đưa cho chúng tôi một tờ giấy có dán tem, trên đó viết vài chữ trong một dòng để trống.
Đó là ông mõ tòa.
Và kể từ ngày ấy ông ta cứ đến luôn, đến nỗi thuộc tất cả tên chúng tôi.
- Chào Rémi!... Ông ta nói... Chào Alexis! Cô khỏe chứ, cô Étiennette?
Và ông ta đưa cho chúng tôi tờ giấy dán tem.
Cha Acquin chạy khắp thành phố.
Ông đi đâu?
Có lẽ đến tòa án chăng?
Chỉ nghĩ đến đó tôi đã cảm thấy sợ hãi. Cụ Vitalis cũng đã phải ra tòa, và kết quả thế nào tôi đã rõ.
Đối với cha Acquin thì kết quả phải chờ lâu hơn.
Một phần mùa đông trôi qua như thế. Chúng tôi không còn tiền để có thể sửa chữa lại nhà kính và vì thế chúng tôi chỉ trồng rau và các loại hoa không phải che chắn, tuy không có lời lắm, nhưng cũng gọi là có công việc.
Một buổi tối, người cha trở về ủ rũ hơn mọi khi.
- Các con ơi!... Ông nói... Hết rồi...
Tôi định ra ngoài, tôi biết ông sắp nói một điều quan trọng mà có lẽ tôi không nên nghe.
Nhưng bằng một cử chỉ, ông giữ tôi lại.
- Con chẳng phải người trong gia đình hay sao?... Các con ơi! Cha sắp từ bỏ các con rồi.
Một tiếng kêu đau đớn thốt lên.
Lise nhảy vào vòng tay ông, vừa ôm hôn ông, vừa khóc.
- Ồ! Chẳng lẽ các con nghĩ cha cố tình bỏ những đứa con ngoan như thế này hay sao?
Nhưng cha bị kết tội không trả nổi tiền. Khi không có tiền, họ sẽ bán tất cả những thứ này đi, mà cho dù bán hết cũng không đủ trả hết nợ nần. Vì vậy, người ta bắt cha đi tù năm năm. Trong thời gian ấy các con sẽ ra sao?...
Mọi người im lặng.
- Rémi sẽ viết thư cho người em của cha là cô Catherine Suriot ở Dreuzy, giải thích cho cô rõ tình hình và mời cô đến đây. Đến khi đó, ta sẽ quyết định sẽ làm những gì trước khi đi tù.
Lần đầu tiên, tôi viết một bức thư, nhưng đáng buồn thay, nó lại đem đến một sự bắt đầu ác nghiệt.
Dầu sao, chúng tôi vẫn hy vọng. Cô Catherine sẽ đến, điều đó cũng là đủ đối với những đứa trẻ như chúng tôi.
Tuy nhiên, cô không đến nhanh như chúng tôi tưởng. Cảnh sát kinh tế, tức những người chuyên đi bắt các con nợ, đã đến trước cô.
Người cha đang định đi ra ngoài thì chạm trán họ, lúc đó có tôi đi cùng. Chỉ trong một giây, họ vây lấy chúng tôi. Ông tái xanh đi như bị choáng váng và bằng một giọng yếu ớt xin được ôm hôn các con.
- Đừng có khổ não quá ông bạn dũng cảm ạ!... Một trong những người lính gác nói... Đi tù nợ không đến nỗi kinh khủng lắm đâu.
Tôi đi tìm mấy anh em trai trong vườn.
Khi chúng tôi trở lại, người cha đang bế Lise trong tay, em khóc sướt mướt.
Một trong những người lính gác thì thầm vào tai ông cái gì đó tôi nghe không rõ.
- Phải... Người cha nói... Ông nói đúng, phải thế thôi.
Rồi đột ngột đứng lên, ông đặt Lise xuống đất, nhưng em cứ bấu chặt lấy ông không rời bàn tay ông ra. Cha Acquin lần lượt ôm hôn Étiennette, Alexis và Benjamin.
Tôi đứng trong một góc, mắt mờ đi vì nước mắt.
Ông gọi tôi:
- Còn con, Rémi, con không đến ôm hôn cha ư? Con không phải là con của cha sao?
Nhìn quanh các con mình một lần cuối, cha Acquin chỉ kịp thốt lên:
- Các con cứ đứng đấy, đừng đi theo cha. Cha ra lệnh đấy.
Và ông vội vàng rời bỏ chúng tôi sau khi đặt bàn tay Lise vào tay chị Étiennette.
Chúng tôi sững sờ đứng giữa bếp, ai cũng khóc. Chị Étiennette, người xưa nay vốn can đảm là thế, người vẫn thường nâng đỡ tinh thần chúng tôi, nay đến lượt mình cũng phải quỵ, cũng yếu đuối như chúng tôi.
Chúng tôi vẫn biết thế nào cũng có ngày này, nhưng chúng tôi đều nghĩ cô Catherine lúc đó sẽ có mặt. Nhưng cô Catherine đã không kịp đến. Cô đến sau khi người cha bị giải đi độ một giờ và nhìn thấy tất cả chúng tôi im lặng ở trong bếp, không ai nói với ai một lời.
Cô Catherine là một người đàn bà cương nghị, đã từng làm vú nuôi ở Paris mười năm. Cô hiểu những khó khăn ở đời này. Chúng tôi nhẹ hẳn người khi được nghe cô ra lệnh, được vâng lời cô.
Đối với một người đàn bà nông thôn không của cải gì, phải gánh vác một trách nhiệm như vậy, quả thật là nặng nề.
Ngay ngày hôm sau, cô đến hỏi ý kiến một công chứng viên, cha của một đứa bé mà cô nuôi trước kia, để quyết định số phận chúng tôi trong thời gian ông Acquin đi tù. Sau đó, cô đến nhà tù để nhất trí với người cha.
Tám ngày sau khi đến Paris, cô cho chúng tôi biết quyết định này như thế nào.
Vì chúng tôi còn nhỏ quá để tự đi làm, nên mỗi một người sẽ đến ở với một trong các người bà con: Lise được giao cho cô Catherine ở Morvan chăm sóc, Alexis về nhà một người chú ở Varses, Benjamin ở nhà một ông chú khác làm vườn ở Saint - Quentin, chị Étiennette ở nhà một người cô ở Esnandes.
Tôi nghe những sự xếp đặt đó, chờ đến lượt mình.
Nhưng vì cô Catherine không nói gì thêm, tôi bèn tiến lên hỏi:
- Còn cháu thì sao ạ?
- Cháu ư? Cháu có phải người trong gia đình đâu?!
- Cháu làm việc cho gia đình.
- Nhưng cháu không phải người trong gia đình.
- Có chứ, có chứ, anh ấy là người trong gia đình. Tất cả đều nói.
Lise tiến tới trước mặt người cô, hai tay chắp lại, cử chỉ đó còn nói lên nhiều hơn những lời nói dài dòng.
- Cháu bé nhỏ tội nghiệp ơi!... Cô Catherine nói... Cô hiểu cháu lắm. Nhưng ở đời này, không phải việc gì người ta muốn đều có thể làm được. Chỉ riêng cho gia đình không thôi, miếng bánh đã quá nhỏ rồi.
Tôi cảm thấy không làm gì hơn được. Điều cô Catherine nói chỉ quá đúng mà thôi.
Cô Catherine cho chúng tôi biết ngày mai sẽ chia tay, rồi cô cho chúng tôi đi ngủ.
Vừa vào đến phòng, tất cả mọi người đều vây quanh tôi, Lise sà vào tôi mà khóc. Tôi hiểu rằng, tuy ai nấy đều buồn vì phải xa cách nhau, nhưng họ vẫn luôn nghĩ đến tôi, phàn nàn cho tôi, tôi cảm thấy mình đúng là anh em ruột của họ.
- Các anh chị nghe em nói này... Tôi xúc động... Em thấy rõ là các anh chị coi em như người trong gia đình vậy.
- Đúng thế! Bao giờ em cũng là em, anh ruột của chúng tôi. Họ nói.
- Được, thế thì em sẽ tỏ ra cho các anh chị thấy, em cũng là một thành viên trong gia đình. Em sẽ lại lấy tấm da cừu và cây đàn hác-pơ xuống, em sẽ đi từ Saint - Quentin tới Varses, từ Varses tới Esnandes, từ Esnandes đến Dreuzy và như thế, em sẽ có cơ hội thăm lần lượt tất cả các anh chị. Em vẫn còn nhớ các bài hát, các điệu nhạc, em sẽ tự kiếm sống.
Trên nét mặt mọi người lộ rõ sự hài lòng. Tôi biết, ý nghĩ của tôi cũng là khát vọng của mỗi người.
Chúng tôi cứ nói về dự định đó mãi. Rồi chị Étiennette muốn chúng tôi vào giường, nhưng nào có ai ngủ được đêm hôm ấy.
Ngay từ sáng sớm, Lise đã đưa tôi ra vườn và làm tôi hiểu rằng em muốn tôi tới thăm những người khác trước em, để em biết được tin tức của tất cả mọi người.
Họ phải ra đi lúc tám giờ sáng, cô Catherine đã thuê một chiếc xe ngựa. Trước tiên, mọi người sẽ vào nhà tù để giã từ ông Acquin, sau đó đem theo bọc hành lý của từng người một ra ga. Tới bảy giờ đến lượt chị étiennette đưa tôi ra vườn.
- Chị muốn để lại cho em một kỷ niệm, đó là bộ đồ của người nội trợ. Trong này, em sẽ tìm thấy kim, chỉ, kéo, những thứ mà em cần đấy.
Trong khi chị Étiennette nói chuyện với tôi thì Alexis cứ quẩn quanh ở chỗ chúng tôi. Chị vào nhà xong thì Alexis lại gần tôi.
- Anh có hai đồng một trăm xu... Alexis nói... Anh sẽ rất vui nếu như em nhận một đồng anh tặng.
Trong năm chúng tôi, Alexis là người duy nhất có ý thức về tiền. Chúng tôi vẫn thường chế nhạo thói hà tiện của anh. Việc anh cho tôi tiền làm tôi xúc động quá. Tôi muốn từ chối nhưng anh cứ ép mãi, buộc lòng tôi phải nhận. Qua đó phải thấy là tình cảm của anh đối với tôi thật mạnh mẽ.
Benjamin cũng không quên tôi, anh cho tôi một con dao đổi lấy một xu, bởi vì anh nghe nói "dao là thứ cắt đứt tình bạn".
Thời gian trôi nhanh quá.
Đến lúc nghe tiếng xe ngựa lại gần. Lise từ phòng cô Catherine bước ra và ra hiệu cho tôi theo em. Trong vườn chúng tôi có một cây hoa hồng Băng-gan ở một góc hẻo lánh. Lise đi về phía cái cây, cắt một cành hồng rồi chia cành hồng đó làm hai nhánh, mỗi bên có một nụ hoa hàm tiếu, rồi trao cho tôi một nhánh.
A! Tiếng nói của đôi môi thật chẳng nghĩa lý gì so với tiếng nói của đôi mắt! So với cái nhìn thì lời nói thật lạnh nhạt và trống rỗng biết bao!
- Lise! Lise! Người cô gọi.
Các bọc quần áo đã đem lên xe cả rồi.
Tôi cầm lấy cây đàn, gọi Capi. Nó nhảy lên mừng rỡ, vì hiểu rằng chúng tôi lại lên đường. lại được tự do đi đó đây.
Cuối cùng, giờ phút chia tay cũng đã đến.
- Các anh chị hôn cha hộ em với nhé! Tôi kêu lên.
Một tiếng nức nở làm giọng tôi nghẹn lại.
Xe ngựa đi mất.
Thế là hết.
Một người láng giềng chịu trách nhiệm đóng cửa căn nhà, ông ta làm tôi tỉnh nỗi sững sờ:
- Cháu không ở lại đây ư? Ông ta hỏi.
- Không ạ, cháu đi.
- Đi đâu?
- Cháu cứ thẳng trước mặt mà đi thôi.
Có lẽ ông làm một động tác vì tình thương, bởi vì ông chìa tay cho tôi:
- Nếu cháu muốn ở lại đây..., ông ta nói,... thì bác sẽ giữ cháu, nhưng không có lương.
Tôi cảm ơn , nhưng lịch sự từ chối lời đề nghị của ông.
Tôi đeo dây đàn lên vai, rồi khoát tay và nói:
- Đi nào, Capi!
Capi nhảy lên trước mặt tôi sủa vang.
Mặt trời đã lên cao, trời trong vắt và ấm áp.
Một cuộc đời mới mở ra trước mặt tôi.
Tôi chỉ là một đứa trẻ mà đã là chủ mình!
Hỡi ôi! Hoàn cảnh tôi thật đáng buồn.
Mặc dầu còn nhỏ nhưng tôi đã phải chịu nhiều bất hạnh, để rồi trở nên thận trọng và khôn ngoan hơn những đứa trẻ bình thường ở tuổi tôi. Đó là một lợi thế mà tôi đã phải trả bằng một giá đắt.
Vì vậy, trước khi lao mình vào con đường mở ra trước mặt tôi, tôi muốn đi thăm con người mà trong những năm qua, đối với tôi, ông đã như là một người cha. Cô Catherine không đem tôi theo cùng các con ông để tôi từ biệt ông, thì tôi sẽ đi một mình đến ôm hôn ông vậy.
Chưa bao giờ tới nhà tù, nhưng thời gian gần đây tôi đã nghe nói đến nó khá nhiều nên chắc chắn là có thể tìm được.
Buộc Capi vào một sợi dây thừng, tôi dắt nó đi đến nhà tù Clichy.
Tôi ngừng lại một lúc trước khi dám vào, tưởng như mình vào đó sẽ bị bắt giữ. Tôi vẫn hình dung ra khỏi nhà tù rất khó, và khi đến nhà tù này, tôi lại biết thêm rằng, muốn vào cũng chẳng dễ chút nào.
Cuối cùng, không chịu để người ta không cho mình vào, đuổi mình về, tôi đã gặp được người tôi muốn gặp.
Người ta đưa tôi vào một hành lang không thanh chắn, không chấn song sắt như tôi đã nghĩ và ngay sau đó, nhìn thấy cha Acquin đi ra cũng không bị xích xiềng như tôi hằng tưởng tượng.
- Cha đang chờ con đây Rémi ạ... Ông bảo tôi... Cha đã mắng Catherine sao không đưa con tới.
Mấy đưa nhỏ nói với cha là con trở lại nghề hát. Con đã quên mình suýt chết vì đói và rét ở cửa nhà ta rồi chăng?
Nếu tôi từ bỏ cuộc đời đó thì chỉ còn một cách là ở cố định một chỗ nào. Nhưng nếu làm vậy, tôi sẽ thất hứa với chị Étiennette, Alexis, Benjamin và Lise. Thực tế chị Étiennette, Alexis và Benjamin chẳng cần nhờ tôi, họ có thể viết thư cho nhau. Nhưng còn Lise thì sao, em không biết viết, cả cô Catherine cũng vậy. Nếu tôi không đến thăm Lise, em sẽ hoàn toàn bị bỏ rơi.
Em sẽ nghĩ về tôi thế nào?
- Thế chẳng lẽ cha không muốn con cho cha biết tin tức của các anh chị em con hay sao? Tôi nói.
- Chúng có nói với cha về chuyện đó... Nhưng không phải chỉ vì nghĩ đến mình mà cha muốn con từ bỏ cuộc đời người hát rong.
- Chính vì vậy đấy cha ạ, nếu con từ bỏ cam kết mà con đã hứa, thì điều đó có nghĩa con không nghĩ đến Lise.
Ông nhìn tôi rất lâu rồi đột nhiên nắm lấy hai bàn tay tôi:
- Con trai của cha, cha sẽ ôm hôn con vì lời nói đó. Con là một đứa trẻ có tâm.
Chỉ có hai chúng tôi ở trong hành lang, chúng tôi ngồi bên nhau trên một chiếc ghế dài, tôi lao vào tay ông.
- Cha chỉ muốn nói với con một lời này nữa thôi... Người cha nói tiếp... Thôi đành nhờ Trời!
Và cả hai chúng tôi ngồi im lặng...
Rồi thời gian gian thăm tù đã hết, đã tới lúc chúng tôi phải chia tay.
Bỗng nhiên, ông lục túi áo gi-lê lôi ra một chiếc đồng hồ quả quýt to, có dây da buộc vào khuyết áo.
- Chẳng nhẽ ta chia tay nhau mà con lại không mang theo một kỷ vật nào của cha? Đây là chiếc đồng hồ của cha. Cha cho con. Nó chẳng có giá trị gì lớn lắm, nếu đáng giá, cha đã bán đi rồi. Nó chạy không được tốt, thỉnh thoảng lại phải lấy ngón tay đẩy. Nhưng lúc này, cha chỉ còn có thế.
Nói xong, ông đặt chiếc đồng hồ vào tay tôi. Rồi thấy tôi có vẻ muốn từ chối một món quà tặng quý đến thế, ông buồn bã nói thêm:
- Ở đây, cha không cần xem giờ, thời gian chỉ trôi quá chậm mà thôi... Vĩnh biệt con, Rémi bé nhỏ của cha!
Và ông cầm tay tôi dắt ra cửa.
Tôi cảm động khôn xiết.
Tôi đứng trên phố khá lâu, rất lâu là khác, không biết nên đi sang trái hay sang phải và có lẽ tôi còn đứng như thế cho đến đêm nếu như.tay tôi không bất ngờ chạm vào một vật tròn cứng.
Một cách máy móc và cũng không hiểu mình làm gì, tôi sờ vào nó, hóa ra cái đồng hồ mà cha Acquin vừa cho tôi.
Đúng giữa trưa.
Đột bhie6n, Capi kéo ống quần tôi. Nó sủa lên vui mừng.
- Mày muốn gì, Capi?
Nó nhìn tôi, chờ đợi mấy phút, rồi vươn người lên đặt chân vào cái túi có chiếc đồng hồ. Thì ra nó muốn xem giờ để nói với "cử tọa đáng kính" như thời làm việc cùng cụ Vitalis.
Tôi cho nó xem. Nó nhìn khá lâu như cố nhớ lại, rồi bắt đầu vẫy đuôi, sủa lên mười hai tiếng. Thế là nó vẫn không quên.
A! Chúng tôi sẽ kiếm được tiền với cái đồng hồ này đây! Thêm một điều tôi không tính đến.
Vì chuyện này diễn ra giữa phố ngay cửa nhà tù, có nhiều người đứng lại tò mò nhìn chúng tôi. Giá mà dám thì tôi đã chơi ngay một buổi biểu diễn, nhưng vì sợ cảnh sát nên tôi thôi.
Nghề của tôi lúc này cần nhất là một cái bản đồ nước Pháp và tôi biết người ta bán nó dưới kè sông. Tôi quyết định mua một cái bèn đi về hướng đó.
Tới nhà thờ Saint - Médard, tôi nhận ra đứa trẻ đang đứng dựa vào tường nhà thờ, đứa trẻ kỳ lạ mà tôi đã nhìn thấy ở nhà Garifoli, vẫn đôi mắt ướt ấy, vẫn vẻ dịu dàng nhẫn nhục ấy.
Tôi lại gần. Dường như nó cũng nhận ra tôi, liền hỏi:
- Có phải anh đến nhà Garifoli cùng với cụ già râu bạc trước hôm tôi vào bệnh viện không nhỉ?
- Tôi đấy. Garifoli vẫn là chủ anh à?
- Người ta đã bắt hắn rồi vì hắn đánh một đứa trẻ nhiều quá đến nỗi nó chết.
Lần đầu tiên tôi thấy nhà tù có ích.
- Bọn trẻ con thì sao? Tôi hỏi.
- À! Tôi có biết gì đâu. Tôi vào bệnh viện vì thằng cha Garifoli đối xử với tôi tệ quá đến nỗi tôi ốm. Ở bệnh viện ra, tôi về lại chỗ Garifoli thì chẳng còn ai. Một người hàng xóm kể lại cho tôi nghe những điều tôi vừa nói với anh. Thành ra tôi mới ở đây, không biết đi đâu, không biết làm gì.
Tôi không giàu có gì, nhưng tôi đủ để làm cho thằng bé này không đến nỗi chết đói. Tôi chạy đến cửa hàng bánh mì, rồi quay về đưa nó một cái bánh mì tròn. Nó vồ lấy nhai ngấu nghiến.
- Còn bây giờ anh định làm gì? Tôi hỏi nó.
- Tôi không biết. Tôi đang định bán cây vĩ cầm đi. Lẽ ra tôi đã bán rồi nếu như việc xa nó không làm cho tôi buồn bã quá. Cây vĩ cầm này là niềm vui, niềm an ủi của tôi. Những lúc buồn, tôi tìm một chỗ khuất, rồi kéo đàn. Lúc ấy, tôi nhìn thấy tất cả những thứ đẹp đẽ ở trên đời này, còn đẹp hơn cả trong mơ nữa.
- Thế sao anh không kéo đàn trong phố?
- Tôi đã chơi đàn trong phố rồi đấy chứ, nhưng chẳng ai cho tiền cả. Còn anh thì sao?
Anh làm gì?
Không hiểu tình cảm khoe khoang trẻ thơ nào đã gây cảm hứng cho tôi:
- Tôi là chủ gánh hát. Tôi nói.
- Ồ! Thế anh có cho tôi nhập vào gánh được không? Tên tôi là Mattia. Thằng bé nói.
- Nhưng cả gánh hát của tôi chỉ có thế này. Tôi chỉ vào Capi.
- Cần gì! Ta có hai người. Ôi! Xin anh, đừng bỏ rơi tôi, tôi sẽ ra sao? Tôi làm việc được, chơi vĩ cầm được, làm trật khớp được, nhảy dây được, chui qua vòng được, hát được, anh muốn gì tôi làm nấy! Tôi không yêu cầu tiền, chỉ mong có cái ăn. Tôi mà làm tồi anh cứ việc đánh tôi, chỉ xin anh một điều. Đừng đánh vào đầu.
Nghe Mattia tội nghiệp nói vậy, tôi chỉ muốn khóc.
- Được. Tôi bảo nó.
Lập tức nó cầm lấy bàn tay tôi, rồi hôn lên đó. Nước mắt tôi dâng lên.
- Đi theo tôi, như một người bạn ấy! Tôi bảo.
Và xóc lại chiếc dây đeo đàn hác-pơ trên vai:
- Tiến lên!
Chỉ một khắc đồng hồ sau, chúng tôi ra khỏi Paris.
Gió hanh tháng ba làm đường khô ráo, việc đi bộ cũng trở nên dễ dàng hơn. Khí trời dịu, mặt trời rực rỡ trên bầu trời trong xanh không một gợn mây. Thật khác biệt biết bao so với cái ngày tuyết rơi mà tôi vào Paris, nơi tôi đã từng xem như một vùng đất hứa. Cuộc du hành của chúng tôi khởi đầu thật đẹp, tôi sải bước trên con đường vang tiếng bước chân với đầy niềm tin. Capi, được tháo dây buộc, chạy quanh chúng tôi, bất cứ cái gì và chẳng làm sao cũng sủa. Có lẽ nó chỉ vì thích mà sủa.
Bên cạnh tôi, Mattia đi trong yên lặng.
Tôi đã hứa với Lise đi gặp hai anh và chị Étiennette của em trước, nhưng tôi không cam kết sẽ thăm ai đầu tiên: Benjamin, Alexis hay chị Étiennette? Tôi đến thăm ai trước tiên sẽ do tôi chọn, nghĩa là tôi có thể đi Cévennes, Charente hoặc Picardie.
Vì tôi ra khỏi Paris về phía nam, tôi chỉ còn chọn hoặc Alexis hoặc chị Étiennette.
Một trong những lý do làm tôi muốn đi xuống phía nam trước, đó là vì mong gặp má Barberin.
Nếu như đã từ lâu tôi không nói tới má, không có nghĩa là tôi đã quên má. Cũng không nên tưởng rằng tôi là kẻ vô ơn, đã không viết thư cho má.
Biết bao lần tôi đã định viết cho má để bảo với má như thế này: "Con luôn nghĩ đến má và yêu má với cả tấm lòng con". Nhưng, một phần vì má không biết đọc, phần khác, nỗi sợ lão Bar-berin kìm tay tôi lại.
Nếu Barberin nhờ thư tôi mà biết tôi ở đâu, hắn có bắt lại tôi chăng? Rồi lại đem bán tôi đi lần nữa chăng? Có lẽ lão có quyền làm việc đó.
Nghĩ đến đó, thà tôi bị má Barberin buộc tội là vô ơn còn hơn vô phúc lại rơi vào quyền hành của lão Barberin.
Nhưng bây giờ khi mà tôi muốn đi đâu thì đi, tôi có thể gặp lại má lắm chứ. Hơn nữa, vì đã thu nhận Mattia vào "gánh hát" của tôi, tôi thấy vấn đề này cũng dễ thôi. Tôi có thể cử Mattia vào trước, tôi khôn ngoan lùi lại sau. Nó sẽ lấy cớ gì đó vào nhà má Barberin. Nếu má có một mình, nó sẽ kể sự thực cho má nghe, rồi ra báo cho tôi biết. Khi đó, tôi sẽ vào căn nhà nơi trôi qua tuổi ấu thơ của tôi để sà vào vòng tay thân yêu của má. Còn nếu như lão Barberin đang ở nhà thì Mattia sẽ đề nghị má Barberin đến một chỗ đã hẹn trước, để tôi được ôm hôn má.
Vừa đi tôi vừa xây dựng cả một kế hoạch như vậy.
Lúc này, chúng tôi đang ở giữa chốn đồng quê nên có thể nghỉ chân một lúc. Tôi bảo Mattia:
- Nếu anh muốn, chúng ta sẽ nghỉ một chút.
- Vâng nhưng tôi muốn xin anh xưng hô cậu, tớ với tôi.
- Tôi muốn thế lắm.
Thế là nó cười, một cái cười chân thành dịu dàng giơ hết cả răng ra, bộ răng trắng ngà trên khuôn mặt rám nắng.
Tôi lấy bản đồ ra, trải trên cỏ. Tôi định hướng khá lâu, cuối cùng vạch ra hành trình của mình như sau: Corbeil, Fontainebleau, Montargis, Gien, Bourges, Saint - Amand, Montlucon. Có thể tới Chavanon được và nếu gặp chút may mắn thì dọc đường chúng tôi sẽ không chết đói.
Trong khi tôi nghiên cứu bản đồ, Mattia quan sát tôi một cách chăm chú.
- Cậu biết đọc ư?
- Có chứ. Thế còn cậu, cậu không biết đọc à?
- Không.
- Thế có muốn học không?
- Ồ! Có chứ.
- Được, thế thì tớ sẽ dạy cậu.
Mở cái túi ra, tôi bỗng có ý nghĩ xem thử ở trong có những thứ gì. Tôi bèn bày cả ra trên cỏ. Tôi có ba áo sơ mi bằng vải toan, ba đôi tất, năm khăn tay, tất cả đều còn rất mới, và một đôi giày đã bắt đầu cũ.
Mattia lóa mắt.
- Còn cậu, cậu có những gì nào? Tôi hỏi nó.
- Cây đàn và bộ quần áo mặc trên người.
- Được!...Tôi nói... Ta sẽ chia ra, vì ta là bạn mà. Cậu sẽ có hai áo sơ mi, hai đôi tất, ba khăn tay. Có điều là mỗi đứa sẽ đeo cái túi trong một giờ đồng hồ.
Mattia muốn từ chối phần đầu của lời đề nghị, nhưng tôi đã có thói quen chỉ huy, tôi không cho nó cãi lại.
Tôi bày cái túi nội trợ mà chị Étiennette cho tôi trên mấy chiếc áo sơ mi, cả cái hộp đựng bông hoa hồng của Lise nữa. Mattia tò mò, muốn mở cái hộp ra, nhưng tôi không cho phép và cất cái hộp đó vào túi.
- Nếu cậu muốn làm vui lòng tớ,... tôi bảo nó,... thì đừng bao giờ mở cái hộp này ra. Đó là một quà tặng.
Từ khi trở lại khoác tấm da cừu và khoác cây đàn hác-pơ, có một điều làm tôi khá lúng túng, đó là chiếc quần của tôi. Nghệ sĩ không.mặc quần dài. Để xuất hiện trước công chúng phải mặc quần cụt, đi tất, trên có buộc chéo những sợi ruy-băng.
Tôi bèn mở cái túi nội trợ của chị Étiennette ra, cầm lấy cái kéo.
- Trong khi tớ sửa cái quần,... tôi bảo Mattia,... cậu cho tớ biết tài nghệ chơi vĩ cầm của cậu nào.
Nó cầm lấy đàn và bắt đầu chơi.
Trong thời gian đó tôi dũng cảm đưa mũi kéo vào cắt quần.
Thoạt đầu tôi vừa cắt quần vừa nghe Mattia, nhưng rồi chẳng mấy chốc, tôi dừng hẳn lại, dỏng tai lên nghe. Mattia chơi vĩ cầm chẳng kém gì cụ Vitalis.
Tôi vừa vỗ tay vừa hỏi nó:
- Ai dạy cậu đàn thế?
- Mỗi người một tí, chủ yếu tự học trong khi làm việc. Tớ chơi những gì nghe được ở người khác.
Đến lượt tôi, tôi cũng muốn tỏ cho Mattia biết mình cũng là một tay chơi nhạc không tồi. Cầm lấy cây đàn hác-pơ, tôi hát một khúc mà tôi yêu thích.
Thế là, như giữa những nghệ sĩ với nhau, Mattia đáp lại lời ca của tôi bằng những cái vỗ tay.
Nhưng, sau khi chơi nhạc cho vui cũng phải nghĩ đến chơi nhạc để có cơm chiều, có chỗ ngủ nữa chứ. Chúng tôi lại lên đường.
- Cậu dạy tớ bài hát của cậu đi... Mattia nói... Ta sẽ cùng hát. Tớ nghĩ chẳng bao lâu tớ sẽ đệm vĩ cầm được, như thế rất hay.
Sau Villejuif, chúng tôi đến một ngôi làng nọ. Khi qua cổng một cái trại, chúng tôi thấy trong sân đầy người: đang có đám cưới.
Tôi chợt có ý nghĩ họ cần có người chơi đàn để nhảy, thế là tôi bước vào, theo sau là Mattia và Capi. Tay ngả mũ chào thật cung kính, tôi đề nghị với người đầu tiên gặp trên đường vào.
Đó là một chàng thanh niên to lớn có vẻ dễ chịu, tính tình điềm đạm.
- Này, các vị ơi!... Anh ta gọi... Các vị nghĩ sao nếu có chút nhạc? Ta đứng vào nhảy ca-đri nào!
Chỉ vài phút sau ai nấy đứng thành từng nhóm ở giữa sân để nhảy.
- Cậu có chơi được điệu nhảy ca-đri không? Tôi hỏi khẽ Mattia vì tôi khá lo lắng.
- Được.
Nó kéo thử đàn vĩ cầm cho tôi nghe, may mà tôi cũng biết điệu ấy. Thế là chúng tôi thoát hiểm.
Người ta đem một cái xe bò từ trong nhà để xe ra, cho chúng tôi lên đó. Tuy chưa hòa nhạc với nhau bao giờ, nhưng chúng tôi cùng chơi điệu nhảy ca-đri không đến nỗi dở. Cũng may chúng tôi chơi ở đây cho những đôi tai không sành nhạc, cũng không khó tính lắm.
- Có cậu nào trong hai cậu biết chơi kèn đẩy coóc-nê không nhỉ? Anh thanh niên to lớn hỏi chúng tôi.
- Có, có... Mattia trả lời,... nhưng tôi không có kèn.
- Để tôi đi kiếm. Vĩ cầm thì hay thật đấy, nhưng hơi nhạt nhẽo.
- Cậu chơi cả kèn đẩy nữa cơ à? Tôi hỏi Mattia.
- Cả kèn tơ-rôm-pét có rãnh, cả sáo, tất cả các nhạc cụ.
Quả thằng bé đáng quý thật.
Chẳng mấy chốc kèn coóc-nê được mang đến, chúng tôi lại cùng chơi khúc nhảy ca-đri, pôn-ka, van-xơ... cứ như thế cho đến tối.
Chúng tôi mệt rã rời. Cô dâu xuất hiện.
- Thôi thôi!... Cô nói... Hai đứa trẻ không đàn nổi nữa rồi. Chuẩn bị đặt tay vào túi tiền đi nào.
- Nếu cô cho phép,... tôi nói với cô,... chúng tôi sẽ cho thủ quỹ của chúng tôi đi thu tiền ạ.
Tôi ném cái mũ của mình cho Capi, nó ngậm vào mõm. Mọi người vỗ tay rầm rập khi thấy nó duyên dáng chào người ta mỗi khi người ta cho tiền, nhưng điều đáng giá hơn đối với chúng tôi là người ta cho nhiều lắm. Tôi theo dõi thấy những đồng bạc trắng xóa rơi xuống mũ, cuối cùng chú rể bỏ vào một đồng năm phrăng.
Chưa phải đã hết. Người ta mời chúng tôi vào bếp ăn cơm và cho chúng tôi ngủ trong vựa thóc.
Sáng hôm sau, khi rời căn nhà mến khách đó chúng tôi có vốn liếng là hai mươi tám phrăng. Cả một tài sản!
- Nhờ cậu mà có đấy, Mattia ạ. Tôi bảo bạn tôi.
- Một mình tớ thì làm sao thành ban nhạc được.
Chúng tôi lại lên đường, lòng thênh thang đầy hy vọng. Cuối cùng tương lai mỉm cười với chúng tôi chăng?
Hết