Thứ Ba, 27 tháng 9, 2011

Những con chim (The Birds) - Phần 6 - Daphne Du Maurier

Thông tin truyện

Những con chim (The Birds) - Phần 6 Năm xuất bản : đang cập nhật
Tác giả : Daphne Du Maurier
Quốc gia : Anh Thể loại : Kinh dị Số phần : 6  Người dịch : Hà Trung Khâm
Đọc truyện

Serve 1

Ta sẽ đi kiếm ít lương thực, ông tự nói với mình. Ta sẽ sang nhà ông chủ lấy ít lương thực.  Ông quay gót vào nhà, xem xét các cửa sổ và cửa ra vào. Ông nói với vợ:  - Anh sẽ sang nhà ông chủ.  Thấy còn chim sống ở trước cửa, bà ấy sợ, ôm cứng lấy ông.  - Cho em và các con đi theo với. Các con và em không dám ở nhà mà không có anh. Chúng em sợ chết mất.  - Vậy thì chúng ta cùng đi, nhớ đem theo nhiều giỏ và cái xe nôi của bé Johnny. Ta sẽ chất đồ lên đó.  Họ mặc thêm quần áo để chống cái lạnh cắt da. Vợ ông đặt bé Johnny vào xe. Nat dắt tay con Jill. Jill nói không ra tiếng:  - Lũ chim, chúng đầy trên cánh đồng.  Nat trấn an con:  - Chúng chẳng làm gì ta đâu, đừng sợ.  Cả nhà từ từ đi qua vài thửa ruộng, đến chỗ leo rào.  Lũ chim vẫn không động đậy, chúng hướng mỏ ra phía gió, chờ đợi.  Đến lối rẽ vào nhà chính, Nat bảo vợ và hai con đợi mình cạnh hàng rào. Nhưng bà ấy không chịu:  - Em cần gặp bà Trigg. Hôm qua bà ấy có đi chợ thì em có thể vay bà ấy vài món, và...  Nat nạt ngang:  - Đợi ở đây, tôi sẽ ra ngay.  Những con bò cái, vú căng sữa, cúi đầu, bồn chồn di động không yên. Lũ cừu đã húc thủng một lỗ ở hàng rào, chui vào và đi lung tung trong vườn trước nhà. Không một chút khói nào bốc lên ống khói.  Nỗi sợ hãi chụp lấy ông. Ông đã chẳng muốn vợ con ông sang đây chút nào.  Ông tiến vào nhà, lách vào giữa bầy bò. Chúng đứng cúi đầu bụng căng sữa, tản ra bốn hướng như không còn sinh khí. Ông thấy chiếc xe hơi nhỏ ở gần cổng, không nằm trong gara như thường ngày. Tất cả các cửa sổ trong tòa nhà bị phá tanh banh. Rất nhiều hải âu chết nằm hàng đống trong vườn và xung quanh nhà. Những con chim sống đậu đầy trong các cây sau nhà và trên nóc nhà. Chúng im lặng, quan sát, theo dõi ông.  Cậu Jim nằm trong vườn. Cậu ta chỉ còn là một xác chết. Khẩu súng của cậu nằm bên cạnh. Cửa trước nhà đóng và cài then chắc, nhưng nâng một cánh cửa sổ lên và leo vào nhà dễ dàng. Xác Trigg nằm gần điện thoại. Chắc là ông đã cố liên lạc với tổng đài khi lũ chim đánh ông sắp chết. Cái máy điện thoại bị giựt ra khỏi chỗ gắn trên tường, ống nghe văng ra khỏi giá. Không thấy bóng dáng bà Trigg đâu. Có lẽ bà ấy ở trên lầu.  Bây giờ lên lầu liệu có giúp được gì không?  Ông rúng động, run sợ, và đoán được sẽ tìm thấy gì ở trên ấy. Cám ơn trời, ông bà Trigg không có những con thơ.  Ông cố luồn lách leo lên cầu thang, nhưng chỉ leo được nửa đường là ông lộn trở xuống. Ông đã thấy hai chân bà Trigg ló ra ngoài cửa phòng ngủ đã mở banh. Cạnh xác bà là hàng đống chim hải âu chết và một cái dù gẫy.  Ông nghĩ, chẳng còn làm gì được nữa rồi. Ta chỉ còn năm tiếng đồng hồ. Ít hơn năm tiếng. Gia đình ông Trigg chắc sẽ thông cảm cho ta thôi, ta mạn phép lấy những thứ cần thiết ta tìm được. Ông cố lết ra chỗ vợ và hai con. Ông nói:  - Tôi sẽ chất những thứ cần dùng kiếm được lên xe hơi chở về nhà rồi trở lại lấy chuyến nữa.  Bà vợ hỏi:  - Gia đình ông Trigg ra sao? - Có thể họ đi thăm bạn bè ở đâu đó.  - Vậy em có thể vào khuân đồ giúp anh được không?  - Không được. Trong ấy bừa bộn lắm. Cừu và bò đi lung tung khắp vườn. Em cứ đợi ở đây, anh sẽ lái xe ra và em có thể ngồi trên xe về nhà.  Vợ ông nhìn ông chằm chằm trong lúc ông nói. Ông tin là bà ấy đã hiểu tình hình, nếu không thì chắc chắn bà ấy sẽ khăng khăng đòi theo ông để tìm lấy ít bánh mì và rau quả.  Hai vợ chồng còn đi lại khu nhà chính vài ba chuyến, cho đến khi ông thấy đã đủ những thứ cần dùng tối thiểu. Cần thiết nhất vẫn là ván để chẹn ngang cửa sổ. Ông đi quanh nhà lấy ván và quyết định sẽ chặn ngang các cửa sổ bằng ván mới.  Chuyến cuối cùng, ông đánh xe lên trạm xe buýt. Ra khỏi xe, ông bước ngay đến trạm điện thoại. Sau một hồi nhấn điên loạn cái núm trên giá máy, cuối cùng ông đành dập ống nghe xuống giá máy. Đường dây liên lạc đã hỏng.  Ông leo lên một bờ cao, nhìn ra khắp vùng. Không nơi nào có vẻ còn sự sống. Chẳng có ai ngoài cánh đồng, trừ lũ chim đang theo dõi và chờ đợi. Vài con chim có lẽ đang ngủ, đầu rúc dưới cánh.  Ông tự hỏi, tại sao mình không nghĩ ra là chúng còn phải đi ăn nữa chứ, chúng không thể chỉ đậu im như thế mãi được. Nhưng rồi ông chợt nhớ ra rằng chúng đã no đầy tới cổ. Chúng đã ăn tối qua nên sáng nay không nhúc nhích.  Ông ngước mặt nhìn trời. Chẳng có chút màu sắc, toàn là mênh mông xám ngoét. Cây cối trơ trụi, đen đúa một màu vì gió đông. Nhưng gió đông lại chẳng ảnh hưởng gì được đến lũ chim sống đang chờ đợi đầy cánh đồng.  Ông tự nói với mình, thế nào rồi người ta cũng diệt được chúng. Chúng đang là một mục tiêu dễ diệt. Có lẽ chúng đều đậu yên một chỗ chờ đợi trên khắp nước. Tại sao phi cơ không cất cánh lúc này và xịt hơi ngạt vào chúng nhỉ? Những người có chức có quyền ở đâu? Đang làm gì? Họ phải hiểu chứ, họ phải tận mắt xem xét tình hình chứ.  Ông quay ra xe, ngồi sau tay lái. Vợ ông thì thào: - Đi nhanh qua cổng thứ hai, ông bưu tín viên nằm chết ở đó. Em không muốn Jill thấy.  Về đến nhà thì đã một giờ kém mười lăm. Chỉ còn khoảng một giờ để chuẩn bị.  - Tốt nhất là em nấu ăn trưa đi. Nấu vài món nóng sốt cho mấy mẹ con em, món súp ấy. Anh không còn giờ ăn, phải dỡ đồ vào nhà. Họ mang mọi thứ vào nhà. Các thứ này sẽ rất cần đây nhưng cũng phải dùng hợp lý vì không có nhiều. Thứ nào ông cũng dùng vào mỗi một việc, đó là phòng thủ trong mấy giờ dài vô tận sắp tới.  Trước hết, ông phải xem xét các cửa sổ, cửa ra vào. Ông đi tuần tự quanh nhà, thử từng cái một, ông leo lên nóc nhà, đóng ván chặn ngang các ống khói thông hơi, trừ ống khói lò bếp. Trời lạnh quá, ông không còn chịu đựng được nữa, nhưng phải cố làm cho xong. Lâu lâu ông lại ngước lên nhìn bầu trời xem có phi cơ chưa. Chẳng thấy bóng dáng cái nào. Ông thầm nguyền rủa chính quyền bất lực.  Chặn xong các ống thông hơi, ông ngưng tay, nhìn ra biển. Một cái gì đang nhúc nhích ở đó, cái gì xám, trắng ở chỗ cái đê chắn sóng.  - Ồ, hạm đội. Hải quân không bao giờ làm công chúng thất vọng. Họ đã xuống eo biển và vào vịnh.  Ông chờ đợi, căng mắt nhìn ra biển. Thực ra là ông lầm. Chẳng có hải quân nào ở đó cả. Đó là lũ hải âu nhấp nhô trên sóng, và những bầy lớn khắp cánh đồng. Lông xù lên rồi nhất loạt cất cánh thành những đội hình, vút lên trời cao.  Triều lại lên.  Nat vội tụt xuống mái, vào nhà. Cả nhà ăn tối xong thì đã hơn hai giờ. Ông chốt cửa lại, đóng ván chặn và tủ chèn rồi đốt đèn. Bé Johnny nói:  - Tối rồi.  Vợ ông mở radio lên. Vẫn chỉ có tiếng xẹc xẹc, không có phát thanh.  - Em đã dò hết các băng tần, cả các đài ngoại quốc, chẳng đài nào phát thanh cả. Chỉ có tiếng máy xẹc xẹc.  - Có lẽ họ cũng gặp tai họa tương tự. Có thể là chim gây rối khắp Âu châu.  Tiếng mổ, tiếng cào bắt đầu ở cửa lớn, cửa sổ. Tiếng xào xạc, tiếng tranh nhau chỗ đứng, tiếng phụp đầu tiên của con chim cảm tử trên bậc cửa.  Nat trù tính sẽ xếp lương thực vào một góc gọn gàng. Cửa sổ đã được đóng ván chặn rất kỹ và ống thông hơi khá chắc. Trong nhà đã đủ thứ dự trữ, nhiên liệu, có thể cầm cự được vài ngày. Vợ ông và cả hai đứa trẻ nữa sẽ giúp ông. Họ sẽ mệt nhoài từ giờ cho đến chín giờ kém mười lăm, lúc triều rút. Sau đó sẽ cho chúng đi ngủ. Mong rằng chúng ngủ ngon đến ba giờ sáng.  Ông cũng có kế hoạch mới cho các cửa sổ: căng dây kẽm gai ở ngoài ván. Ông đã chở từ nhà chủ trại về một cuộn lớn. Có điều là ông phải căng trong bóng tối, lúc bọn chim hưu chiến, từ chín giờ tối đến ba giờ sáng. Tội nghiệp ông không nghĩ ra cách đó sớm. Nhưng miễn sao vợ con ông ngủ yên là được.  Những loài chim nhỏ hơn bây giờ đang ở cửa sổ vì tiếng mổ và tiếng chạm cánh vào gỗ nhỏ hơn. Bọn ó bỏ mặt trận cửa sổ, tập trung vào chính diện cửa ra vào.  Nat nghe tiếng mổ xước, tiếng xé ra từng cọng mà thắc mắc, không biết lũ chim đã có kinh nghiệm mấy triệu năm chứa trong bộ óc nhỏ xíu, sau cái mỏ nhọn hoắt, sau đôi mắt xuyên thấu kia, mà giờ đây khiến cho chúng có bản năng tiêu diệt loài người một cách chính xác như máy. Ông nói với vợ:  - Tôi sẽ hút điếu thuốc cuối cùng. Thật là khùng! Tôi đã không lượm vài gói ở nhà chính.  Ông với tay nhận điếu thuốc, mở cái radio "xẹc xẹc”.  Ông liệng cái bao thuốc rỗng vào lò và nhìn nó cháy.
Hết
Hết : Giới thiệu - Xem tiếp : Chương 1

Serve 1

Ta sẽ đi kiếm ít lương thực, ông tự nói với mình. Ta sẽ sang nhà ông chủ lấy ít lương thực. 
Ông quay gót vào nhà, xem xét các cửa sổ và cửa ra vào. Ông nói với vợ: 
- Anh sẽ sang nhà ông chủ. 
Thấy còn chim sống ở trước cửa, bà ấy sợ, ôm cứng lấy ông. 
- Cho em và các con đi theo với. Các con và em không dám ở nhà mà không có anh. Chúng em sợ chết mất. 
- Vậy thì chúng ta cùng đi, nhớ đem theo nhiều giỏ và cái xe nôi của bé Johnny. Ta sẽ chất đồ lên đó. 
Họ mặc thêm quần áo để chống cái lạnh cắt da. Vợ ông đặt bé Johnny vào xe. Nat dắt tay con Jill.
Jill nói không ra tiếng: 

- Lũ chim, chúng đầy trên cánh đồng. 
Nat trấn an con: 
- Chúng chẳng làm gì ta đâu, đừng sợ. 
Cả nhà từ từ đi qua vài thửa ruộng, đến chỗ leo rào. 
Lũ chim vẫn không động đậy, chúng hướng mỏ ra phía gió, chờ đợi. 
Đến lối rẽ vào nhà chính, Nat bảo vợ và hai con đợi mình cạnh hàng rào. Nhưng bà ấy không chịu: 
- Em cần gặp bà Trigg. Hôm qua bà ấy có đi chợ thì em có thể vay bà ấy vài món, và... 
Nat nạt ngang: 
- Đợi ở đây, tôi sẽ ra ngay. 
Những con bò cái, vú căng sữa, cúi đầu, bồn chồn di động không yên. Lũ cừu đã húc thủng một lỗ ở hàng rào, chui vào và đi lung tung trong vườn trước nhà.
Không một chút khói nào bốc lên ống khói. 

Nỗi sợ hãi chụp lấy ông. Ông đã chẳng muốn vợ con ông sang đây chút nào. 
Ông tiến vào nhà, lách vào giữa bầy bò. Chúng đứng cúi đầu bụng căng sữa, tản ra bốn hướng như không còn sinh khí.
Ông thấy chiếc xe hơi nhỏ ở gần cổng, không nằm trong gara như thường ngày. Tất cả các cửa sổ trong tòa nhà bị phá tanh banh. Rất nhiều hải âu chết nằm hàng đống trong vườn và xung quanh nhà.
Những con chim sống đậu đầy trong các cây sau nhà và trên nóc nhà. Chúng im lặng, quan sát, theo dõi ông. 

Cậu Jim nằm trong vườn. Cậu ta chỉ còn là một xác chết. Khẩu súng của cậu nằm bên cạnh.
Cửa trước nhà đóng và cài then chắc, nhưng nâng một cánh cửa sổ lên và leo vào nhà dễ dàng.
Xác Trigg nằm gần điện thoại. Chắc là ông đã cố liên lạc với tổng đài khi lũ chim đánh ông sắp chết. Cái máy điện thoại bị giựt ra khỏi chỗ gắn trên tường, ống nghe văng ra khỏi giá.

Không thấy bóng dáng bà Trigg đâu. Có lẽ bà ấy ở trên lầu. 
Bây giờ lên lầu liệu có giúp được gì không? 
Ông rúng động, run sợ, và đoán được sẽ tìm thấy gì ở trên ấy. Cám ơn trời, ông bà Trigg không có những con thơ. 
Ông cố luồn lách leo lên cầu thang, nhưng chỉ leo được nửa đường là ông lộn trở xuống. Ông đã thấy hai chân bà Trigg ló ra ngoài cửa phòng ngủ đã mở banh. Cạnh xác bà là hàng đống chim hải âu chết và một cái dù gẫy. 
Ông nghĩ, chẳng còn làm gì được nữa rồi. Ta chỉ còn năm tiếng đồng hồ. Ít hơn năm tiếng. Gia đình ông Trigg chắc sẽ thông cảm cho ta thôi, ta mạn phép lấy những thứ cần thiết ta tìm được.
Ông cố lết ra chỗ vợ và hai con. Ông nói: 

- Tôi sẽ chất những thứ cần dùng kiếm được lên xe hơi chở về nhà rồi trở lại lấy chuyến nữa. 
Bà vợ hỏi: 
- Gia đình ông Trigg ra sao?
- Có thể họ đi thăm bạn bè ở đâu đó. 
- Vậy em có thể vào khuân đồ giúp anh được không? 
- Không được. Trong ấy bừa bộn lắm. Cừu và bò đi lung tung khắp vườn. Em cứ đợi ở đây, anh sẽ lái xe ra và em có thể ngồi trên xe về nhà. 
Vợ ông nhìn ông chằm chằm trong lúc ông nói. Ông tin là bà ấy đã hiểu tình hình, nếu không thì chắc chắn bà ấy sẽ khăng khăng đòi theo ông để tìm lấy ít bánh mì và rau quả. 
Hai vợ chồng còn đi lại khu nhà chính vài ba chuyến, cho đến khi ông thấy đã đủ những thứ cần dùng tối thiểu. Cần thiết nhất vẫn là ván để chẹn ngang cửa sổ. Ông đi quanh nhà lấy ván và quyết định sẽ chặn ngang các cửa sổ bằng ván mới. 
Chuyến cuối cùng, ông đánh xe lên trạm xe buýt. Ra khỏi xe, ông bước ngay đến trạm điện thoại.
Sau một hồi nhấn điên loạn cái núm trên giá máy, cuối cùng ông đành dập ống nghe xuống giá máy. Đường dây liên lạc đã hỏng. 

Ông leo lên một bờ cao, nhìn ra khắp vùng. Không nơi nào có vẻ còn sự sống. Chẳng có ai ngoài cánh đồng, trừ lũ chim đang theo dõi và chờ đợi.
Vài con chim có lẽ đang ngủ, đầu rúc dưới cánh. 

Ông tự hỏi, tại sao mình không nghĩ ra là chúng còn phải đi ăn nữa chứ, chúng không thể chỉ đậu im như thế mãi được. Nhưng rồi ông chợt nhớ ra rằng chúng đã no đầy tới cổ. Chúng đã ăn tối qua nên sáng nay không nhúc nhích. 
Ông ngước mặt nhìn trời. Chẳng có chút màu sắc, toàn là mênh mông xám ngoét. Cây cối trơ trụi, đen đúa một màu vì gió đông. Nhưng gió đông lại chẳng ảnh hưởng gì được đến lũ chim sống đang chờ đợi đầy cánh đồng. 
Ông tự nói với mình, thế nào rồi người ta cũng diệt được chúng. Chúng đang là một mục tiêu dễ diệt. Có lẽ chúng đều đậu yên một chỗ chờ đợi trên khắp nước. Tại sao phi cơ không cất cánh lúc này và xịt hơi ngạt vào chúng nhỉ? Những người có chức có quyền ở đâu? Đang làm gì? Họ phải hiểu chứ, họ phải tận mắt xem xét tình hình chứ. 
Ông quay ra xe, ngồi sau tay lái.
Vợ ông thì thào:

- Đi nhanh qua cổng thứ hai, ông bưu tín viên nằm chết ở đó. Em không muốn Jill thấy. 
Về đến nhà thì đã một giờ kém mười lăm. Chỉ còn khoảng một giờ để chuẩn bị. 
- Tốt nhất là em nấu ăn trưa đi. Nấu vài món nóng sốt cho mấy mẹ con em, món súp ấy. Anh không còn giờ ăn, phải dỡ đồ vào nhà.
Họ mang mọi thứ vào nhà. Các thứ này sẽ rất cần đây nhưng cũng phải dùng hợp lý vì không có nhiều. Thứ nào ông cũng dùng vào mỗi một việc, đó là phòng thủ trong mấy giờ dài vô tận sắp tới. 
Trước hết, ông phải xem xét các cửa sổ, cửa ra vào. Ông đi tuần tự quanh nhà, thử từng cái một, ông leo lên nóc nhà, đóng ván chặn ngang các ống khói thông hơi, trừ ống khói lò bếp.
Trời lạnh quá, ông không còn chịu đựng được nữa, nhưng phải cố làm cho xong. Lâu lâu ông lại ngước lên nhìn bầu trời xem có phi cơ chưa. Chẳng thấy bóng dáng cái nào. Ông thầm nguyền rủa chính quyền bất lực. 

Chặn xong các ống thông hơi, ông ngưng tay, nhìn ra biển. Một cái gì đang nhúc nhích ở đó, cái gì xám, trắng ở chỗ cái đê chắn sóng. 
- Ồ, hạm đội. Hải quân không bao giờ làm công chúng thất vọng. Họ đã xuống eo biển và vào vịnh. 
Ông chờ đợi, căng mắt nhìn ra biển.
Thực ra là ông lầm. Chẳng có hải quân nào ở đó cả. Đó là lũ hải âu nhấp nhô trên sóng, và những bầy lớn khắp cánh đồng. Lông xù lên rồi nhất loạt cất cánh thành những đội hình, vút lên trời cao. 
Triều lại lên. 
Nat vội tụt xuống mái, vào nhà. Cả nhà ăn tối xong thì đã hơn hai giờ. Ông chốt cửa lại, đóng ván chặn và tủ chèn rồi đốt đèn.
Bé Johnny nói: 

- Tối rồi. 
Vợ ông mở radio lên. Vẫn chỉ có tiếng xẹc xẹc, không có phát thanh. 
- Em đã dò hết các băng tần, cả các đài ngoại quốc, chẳng đài nào phát thanh cả. Chỉ có tiếng máy xẹc xẹc. 
- Có lẽ họ cũng gặp tai họa tương tự. Có thể là chim gây rối khắp Âu châu. 
Tiếng mổ, tiếng cào bắt đầu ở cửa lớn, cửa sổ. Tiếng xào xạc, tiếng tranh nhau chỗ đứng, tiếng phụp đầu tiên của con chim cảm tử trên bậc cửa. 
Nat trù tính sẽ xếp lương thực vào một góc gọn gàng. Cửa sổ đã được đóng ván chặn rất kỹ và ống thông hơi khá chắc. Trong nhà đã đủ thứ dự trữ, nhiên liệu, có thể cầm cự được vài ngày. Vợ ông và cả hai đứa trẻ nữa sẽ giúp ông. Họ sẽ mệt nhoài từ giờ cho đến chín giờ kém mười lăm, lúc triều rút. Sau đó sẽ cho chúng đi ngủ. Mong rằng chúng ngủ ngon đến ba giờ sáng. 
Ông cũng có kế hoạch mới cho các cửa sổ: căng dây kẽm gai ở ngoài ván. Ông đã chở từ nhà chủ trại về một cuộn lớn. Có điều là ông phải căng trong bóng tối, lúc bọn chim hưu chiến, từ chín giờ tối đến ba giờ sáng. Tội nghiệp ông không nghĩ ra cách đó sớm. Nhưng miễn sao vợ con ông ngủ yên là được. 
Những loài chim nhỏ hơn bây giờ đang ở cửa sổ vì tiếng mổ và tiếng chạm cánh vào gỗ nhỏ hơn. Bọn ó bỏ mặt trận cửa sổ, tập trung vào chính diện cửa ra vào. 
Nat nghe tiếng mổ xước, tiếng xé ra từng cọng mà thắc mắc, không biết lũ chim đã có kinh nghiệm mấy triệu năm chứa trong bộ óc nhỏ xíu, sau cái mỏ nhọn hoắt, sau đôi mắt xuyên thấu kia, mà giờ đây khiến cho chúng có bản năng tiêu diệt loài người một cách chính xác như máy.
Ông nói với vợ: 

- Tôi sẽ hút điếu thuốc cuối cùng. Thật là khùng! Tôi đã không lượm vài gói ở nhà chính. 
Ông với tay nhận điếu thuốc, mở cái radio "xẹc xẹc”. 
Ông liệng cái bao thuốc rỗng vào lò và nhìn nó cháy.

Hết
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close