Thông tin truyện
Tác giả : Daphne Du MaurierQuốc gia : Anh Thể loại : Kinh dị Số phần : 6 Người dịch : Hà Trung Khâm
Đọc truyện
Serve 1
Ông ngồi chờ đợi bên cái lò. Ngọn lửa đang lụi dần, nhưng xác chim đen thui không còn rơi xuống lò nữa. Ông thọc cây cời lửa vào ống khói, thọc lên được càng cao càng tốt nhưng ông không thấy gì cả. - Nỗi lo ống khói bị nghẹt hay bốc cháy không còn nữa. Ta có thể cầm cự với chúng được tới lúc triều xuống. Cách này có vẻ hữu hiệu. Ta sẽ kiếm các thứ nguyên liệu khi triều đổi hướng. Tạm thời lúc này phải chiều theo hoàn cảnh. Vậy thôi. Cả nhà uống trà, cô ca, nhâm nhi những lát bánh mì mỏng. Chỉ còn lại nửa ổ. Nat tinh ý nhận thấy. Nhưng không sao, lũ chim sẽ đi thôi. Nếu gia đình ông cầm cự được đến bảy giờ sáng, nghe xong bản tin tức thì cũng đã là điều không đến nỗi tệ. Ông nói với vợ: - Làm ơn cho tôi một điếu thuốc, để đuổi mùi lông khét đi. - Chỉ còn hai điếu trong bao thôi. Em đã tính mua thêm cho anh ít gói rồi. - Tôi sẽ hút một điếu. Ông ngồi hút thuốc, một tay ôm eo vợ, một tay trên vai Jill và Johnny trong lòng. Mền trùm chung quanh họ, trên nệm. Ông lên tiếng: - Chúng ta phải phục những người ăn mày. Chắc họ cũng chán cái nạn chim chóc này lắm rồi. Nhưng chúng chẳng mảy may làm gì được họ, họ rất kiên trì. Nhưng thời gian để thán phục ăn mày không kéo dài được lâu. Những tiếng mổ, tiếng cào liên tục vang lên. Nat không muốn nghe cũng không được. Một loại tiếng cào mới được phân biệt rõ, như thể một loài chim có mỏ sắc hơn đến thay thế cho đồng loại của chúng. Ông cố nhớ lại tên các loài chim và cố đoán loài chim nào đến để đảm nhận công tác đục lỗ qua ván. Không phải tiếng gõ mỏ của loài gõ kiến vốn nhẹ và nhanh hơn. Với cách mổ của loài chim mới này, nếu chúng cứ tiếp tục mổ lâu dài thì rất nguy hiểm, gỗ nào cũng phải tưa ra rồi bục, cũng như kính đã vỡ. Thình lình ông nghĩ tới loài ó. Có lẽ lũ ó đã đến thay cho bọn hải âu. Liệu bọn diều hâu xám đậu trên bậu cửa sổ vừa dùng vuốt lẫn mỏ không nhỉ? Diều hâu nâu, diều hâu xám, ó, mồng, két. Ông quên mất lũ chim ăn thịt sống, ông quên phắt mất sức mạnh quắp bằng mỏ và vuốt của bọn chúng. Còn phải cầm cự ba giờ nữa. Vẫn phải nghe những âm thanh hãi hùng của gỗ tách ra, âm thanh của câu vuốt bấu vào gỗ. Nat nhìn quanh bếp xem có món đồ nào hy sinh được, để tăng cường chèn cửa. Các cửa sổ ở bếp thì an toàn rồi, vì được chẹn bằng cái tủ đứng. Ông lên lầu. Mới tới đầu cầu thang, ông dừng lại nghe ngóng. Có tiếng mổ nho nhỏ dưới sàn phòng ngủ của hai đứa nhỏ. Lũ chim đã lọt được vào nhà. Phòng ngủ kia vẫn yên tĩnh. Ông khuân đồ đạc ra chất chen ở đầu cầu thang, phòng khi lũ chim đục thủng được phòng ngủ của hai đứa nhỏ. Tiếng vợ ông cất lên: - Xuống đây anh Nat, anh làm gì ở trên đó? - Anh xuống ngay đây, anh chỉ dời chỗ mấy món đồ để chèn trên này cho chắc thôi. Ông không muốn vợ ông lên đây, ông không muốn bà ấy nghe tiếng mổ lộp độp trong phòng ngủ, tiếng cánh chim đập vào cửa. Sau khi đê nghị bà ấy làm điểm tâm, ông chẳng biết mình đã nhìn chằm chặp vào đồng hồ từ lúc nào. Ông nhìn những chiếc kim quay chầm chậm trên mặt số. Nếu giả thuyết của ông sai, nếu bọn chim không ngừng tấn công lúc triều xuống, gia đình ông đành chịu thua bọn chim. Gia đình ông không thể tiếp tục một ngày nữa. Thiếu không khí, thiếu nhiên liệu, không được nghỉ ngơi... Một tiếng xẹc xuyên qua tai ông, xua đuổi hẳn cơn buồn ngủ bất thần không thể cưỡng được. - Cái gì đó, bây giờ đến chuyện gì? Ông hỏi sẵng. - Tiếng cái radio xẹc đó. Em vẫn canh đồng hồ. Gần bảy giờ rồi. Tiếng xẹc xẹc quen thuộc của cái radio đem lại sức sống mới. Họ chờ đợi. Chiếc đồng hồ ở bếp điểm bảy giờ. Tiếng xẹc xẹc tiếp tục. Vẫn chưa có tiếng chuông London, không có nhạc phát ra từ radio như thường lệ. Họ đợi thêm mười lăm phút nữa. Vẫn không có phát thanh, chẳng có bản tin. Cuối cùng ông nói: - Chúng ta nghe lộn giờ rồi. Họ đã thông báo là đến tám giờ mới phát tin. Họ cứ để radio mở. Nat cũng nghĩ tới mấy cục pin không biết còn xài được bao lâu. Nếu hết pin làm sao nghe được chỉ thị. - Trời sáng rồi, anh Nat ơi. Em không nhìn thấy nhưng em cảm thấy rạng sáng. Và anh nghe mà xem, lũ chim không còn mổ mạnh như trước nữa. Bà ấy nói đúng. Tiếng cào, tiếng gỗ rách giảm đi từng phút một. Tiếng lao xao tranh chỗ đậu trên gờ cửa sổ, trên bậc thềm cũng giảm rõ rệt. Đúng là triều đang rút. Đến tám giờ, chẳng còn tiếng động nào nữa. Chỉ còn tiếng gió hú và những tiếng xẹc xẹc từ radio. Yên lặng sau cùng cũng mơn trớn, ru ngủ những đứa bé. Chúng thiu thiu ngủ. Đến tám giờ ba mươi, Nat tắt radio. - Chúng ta sẽ lỡ bản tin mất. - Sẽ chẳng có bản tin nào đâu. Ta phải lo liệu lấy thôi em ạ. Nat ra cửa, từ từ gỡ những chướng ngại vật chẹn cửa ra. Ông kéo chốt cửa, lấy chân gạt những xác chim sang một bên lấy lối ra. Ông bước ra khỏi cửa, hít thở không khí trong mát. Hôm nay ông phải làm việc sáu tiếng lúc trời còn sáng, ông phải dưỡng sức tối đa, không thể phí sức một chút nào. Thực phẩm, ánh sáng và nhiên liệu cũng tối cần thiết. Nếu kiếm được đủ thì gia đình ông sẽ cầm cự được một đêm nữa. Nat bước ra vườn. Lạ chưa, lũ chim sống còn đây. Những con hải âu đã bay ra biển cưỡi sóng như thường lệ. Chúng tìm thức ăn ngoài biển và đợi triều dâng lại tấn công. Lũ chim đất liền thì khác hẳn, chúng quan sát, chờ đợi. Nat thấy chúng trong bờ rào cây xanh, trên nương rẫy, chen chúc nhau trên cây khắp cánh đồng. Hàng hàng, lớp lớp chim, yên lặng, chẳng làm gì cả. Ông tiến đến cuối vườn. Lũ chim không nhúc nhích. Chúng yên lặng theo dõi ông.Hết phần 5
Serve 1
Ông ngồi chờ đợi bên cái lò. Ngọn lửa đang lụi dần, nhưng xác chim đen thui không còn rơi xuống lò nữa. Ông thọc cây cời lửa vào ống khói, thọc lên được càng cao càng tốt nhưng ông không thấy gì cả.
- Nỗi lo ống khói bị nghẹt hay bốc cháy không còn nữa. Ta có thể cầm cự với chúng được tới lúc triều xuống. Cách này có vẻ hữu hiệu. Ta sẽ kiếm các thứ nguyên liệu khi triều đổi hướng. Tạm thời lúc này phải chiều theo hoàn cảnh. Vậy thôi.
Cả nhà uống trà, cô ca, nhâm nhi những lát bánh mì mỏng.
Chỉ còn lại nửa ổ. Nat tinh ý nhận thấy. Nhưng không sao, lũ chim sẽ đi thôi. Nếu gia đình ông cầm cự được đến bảy giờ sáng, nghe xong bản tin tức thì cũng đã là điều không đến nỗi tệ.
Ông nói với vợ:
- Làm ơn cho tôi một điếu thuốc, để đuổi mùi lông khét đi.
- Chỉ còn hai điếu trong bao thôi. Em đã tính mua thêm cho anh ít gói rồi.
- Tôi sẽ hút một điếu.
Ông ngồi hút thuốc, một tay ôm eo vợ, một tay trên vai Jill và Johnny trong lòng. Mền trùm chung quanh họ, trên nệm. Ông lên tiếng:
- Chúng ta phải phục những người ăn mày. Chắc họ cũng chán cái nạn chim chóc này lắm rồi. Nhưng chúng chẳng mảy may làm gì được họ, họ rất kiên trì.
Nhưng thời gian để thán phục ăn mày không kéo dài được lâu. Những tiếng mổ, tiếng cào liên tục vang lên. Nat không muốn nghe cũng không được. Một loại tiếng cào mới được phân biệt rõ, như thể một loài chim có mỏ sắc hơn đến thay thế cho đồng loại của chúng.
Ông cố nhớ lại tên các loài chim và cố đoán loài chim nào đến để đảm nhận công tác đục lỗ qua ván.
Không phải tiếng gõ mỏ của loài gõ kiến vốn nhẹ và nhanh hơn. Với cách mổ của loài chim mới này, nếu chúng cứ tiếp tục mổ lâu dài thì rất nguy hiểm, gỗ nào cũng phải tưa ra rồi bục, cũng như kính đã vỡ.
Thình lình ông nghĩ tới loài ó. Có lẽ lũ ó đã đến thay cho bọn hải âu. Liệu bọn diều hâu xám đậu trên bậu cửa sổ vừa dùng vuốt lẫn mỏ không nhỉ? Diều hâu nâu, diều hâu xám, ó, mồng, két. Ông quên mất lũ chim ăn thịt sống, ông quên phắt mất sức mạnh quắp bằng mỏ và vuốt của bọn chúng.
Còn phải cầm cự ba giờ nữa. Vẫn phải nghe những âm thanh hãi hùng của gỗ tách ra, âm thanh của câu vuốt bấu vào gỗ.
Nat nhìn quanh bếp xem có món đồ nào hy sinh được, để tăng cường chèn cửa. Các cửa sổ ở bếp thì an toàn rồi, vì được chẹn bằng cái tủ đứng.
Ông lên lầu. Mới tới đầu cầu thang, ông dừng lại nghe ngóng. Có tiếng mổ nho nhỏ dưới sàn phòng ngủ của hai đứa nhỏ. Lũ chim đã lọt được vào nhà. Phòng ngủ kia vẫn yên tĩnh. Ông khuân đồ đạc ra chất chen ở đầu cầu thang, phòng khi lũ chim đục thủng được phòng ngủ của hai đứa nhỏ.
Tiếng vợ ông cất lên:
- Xuống đây anh Nat, anh làm gì ở trên đó?
- Anh xuống ngay đây, anh chỉ dời chỗ mấy món đồ để chèn trên này cho chắc thôi.
Ông không muốn vợ ông lên đây, ông không muốn bà ấy nghe tiếng mổ lộp độp trong phòng ngủ, tiếng cánh chim đập vào cửa.
Sau khi đê nghị bà ấy làm điểm tâm, ông chẳng biết mình đã nhìn chằm chặp vào đồng hồ từ lúc nào. Ông nhìn những chiếc kim quay chầm chậm trên mặt số. Nếu giả thuyết của ông sai, nếu bọn chim không ngừng tấn công lúc triều xuống, gia đình ông đành chịu thua bọn chim. Gia đình ông không thể tiếp tục một ngày nữa. Thiếu không khí, thiếu nhiên liệu, không được nghỉ ngơi...
Một tiếng xẹc xuyên qua tai ông, xua đuổi hẳn cơn buồn ngủ bất thần không thể cưỡng được.
- Cái gì đó, bây giờ đến chuyện gì? Ông hỏi sẵng.
- Tiếng cái radio xẹc đó. Em vẫn canh đồng hồ. Gần bảy giờ rồi.
Tiếng xẹc xẹc quen thuộc của cái radio đem lại sức sống mới.
Họ chờ đợi.
Chiếc đồng hồ ở bếp điểm bảy giờ.
Tiếng xẹc xẹc tiếp tục. Vẫn chưa có tiếng chuông London, không có nhạc phát ra từ radio như thường lệ.
Họ đợi thêm mười lăm phút nữa. Vẫn không có phát thanh, chẳng có bản tin.
Cuối cùng ông nói:
- Chúng ta nghe lộn giờ rồi. Họ đã thông báo là đến tám giờ mới phát tin.
Họ cứ để radio mở.
Nat cũng nghĩ tới mấy cục pin không biết còn xài được bao lâu. Nếu hết pin làm sao nghe được chỉ thị.
- Trời sáng rồi, anh Nat ơi. Em không nhìn thấy nhưng em cảm thấy rạng sáng. Và anh nghe mà xem, lũ chim không còn mổ mạnh như trước nữa.
Bà ấy nói đúng. Tiếng cào, tiếng gỗ rách giảm đi từng phút một. Tiếng lao xao tranh chỗ đậu trên gờ cửa sổ, trên bậc thềm cũng giảm rõ rệt. Đúng là triều đang rút.
Đến tám giờ, chẳng còn tiếng động nào nữa. Chỉ còn tiếng gió hú và những tiếng xẹc xẹc từ radio. Yên lặng sau cùng cũng mơn trớn, ru ngủ những đứa bé. Chúng thiu thiu ngủ.
Đến tám giờ ba mươi, Nat tắt radio.
- Chúng ta sẽ lỡ bản tin mất.
- Sẽ chẳng có bản tin nào đâu. Ta phải lo liệu lấy thôi em ạ.
Nat ra cửa, từ từ gỡ những chướng ngại vật chẹn cửa ra. Ông kéo chốt cửa, lấy chân gạt những xác chim sang một bên lấy lối ra. Ông bước ra khỏi cửa, hít thở không khí trong mát.
Hôm nay ông phải làm việc sáu tiếng lúc trời còn sáng, ông phải dưỡng sức tối đa, không thể phí sức một chút nào.
Thực phẩm, ánh sáng và nhiên liệu cũng tối cần thiết. Nếu kiếm được đủ thì gia đình ông sẽ cầm cự được một đêm nữa.
Nat bước ra vườn. Lạ chưa, lũ chim sống còn đây. Những con hải âu đã bay ra biển cưỡi sóng như thường lệ. Chúng tìm thức ăn ngoài biển và đợi triều dâng lại tấn công.
Lũ chim đất liền thì khác hẳn, chúng quan sát, chờ đợi. Nat thấy chúng trong bờ rào cây xanh, trên nương rẫy, chen chúc nhau trên cây khắp cánh đồng. Hàng hàng, lớp lớp chim, yên lặng, chẳng làm gì cả.
Ông tiến đến cuối vườn.
Lũ chim không nhúc nhích. Chúng yên lặng theo dõi ông.
- Nỗi lo ống khói bị nghẹt hay bốc cháy không còn nữa. Ta có thể cầm cự với chúng được tới lúc triều xuống. Cách này có vẻ hữu hiệu. Ta sẽ kiếm các thứ nguyên liệu khi triều đổi hướng. Tạm thời lúc này phải chiều theo hoàn cảnh. Vậy thôi.
Cả nhà uống trà, cô ca, nhâm nhi những lát bánh mì mỏng.
Chỉ còn lại nửa ổ. Nat tinh ý nhận thấy. Nhưng không sao, lũ chim sẽ đi thôi. Nếu gia đình ông cầm cự được đến bảy giờ sáng, nghe xong bản tin tức thì cũng đã là điều không đến nỗi tệ.
Ông nói với vợ:
- Làm ơn cho tôi một điếu thuốc, để đuổi mùi lông khét đi.
- Chỉ còn hai điếu trong bao thôi. Em đã tính mua thêm cho anh ít gói rồi.
- Tôi sẽ hút một điếu.
Ông ngồi hút thuốc, một tay ôm eo vợ, một tay trên vai Jill và Johnny trong lòng. Mền trùm chung quanh họ, trên nệm. Ông lên tiếng:
- Chúng ta phải phục những người ăn mày. Chắc họ cũng chán cái nạn chim chóc này lắm rồi. Nhưng chúng chẳng mảy may làm gì được họ, họ rất kiên trì.
Nhưng thời gian để thán phục ăn mày không kéo dài được lâu. Những tiếng mổ, tiếng cào liên tục vang lên. Nat không muốn nghe cũng không được. Một loại tiếng cào mới được phân biệt rõ, như thể một loài chim có mỏ sắc hơn đến thay thế cho đồng loại của chúng.
Ông cố nhớ lại tên các loài chim và cố đoán loài chim nào đến để đảm nhận công tác đục lỗ qua ván.
Không phải tiếng gõ mỏ của loài gõ kiến vốn nhẹ và nhanh hơn. Với cách mổ của loài chim mới này, nếu chúng cứ tiếp tục mổ lâu dài thì rất nguy hiểm, gỗ nào cũng phải tưa ra rồi bục, cũng như kính đã vỡ.
Thình lình ông nghĩ tới loài ó. Có lẽ lũ ó đã đến thay cho bọn hải âu. Liệu bọn diều hâu xám đậu trên bậu cửa sổ vừa dùng vuốt lẫn mỏ không nhỉ? Diều hâu nâu, diều hâu xám, ó, mồng, két. Ông quên mất lũ chim ăn thịt sống, ông quên phắt mất sức mạnh quắp bằng mỏ và vuốt của bọn chúng.
Còn phải cầm cự ba giờ nữa. Vẫn phải nghe những âm thanh hãi hùng của gỗ tách ra, âm thanh của câu vuốt bấu vào gỗ.
Nat nhìn quanh bếp xem có món đồ nào hy sinh được, để tăng cường chèn cửa. Các cửa sổ ở bếp thì an toàn rồi, vì được chẹn bằng cái tủ đứng.
Ông lên lầu. Mới tới đầu cầu thang, ông dừng lại nghe ngóng. Có tiếng mổ nho nhỏ dưới sàn phòng ngủ của hai đứa nhỏ. Lũ chim đã lọt được vào nhà. Phòng ngủ kia vẫn yên tĩnh. Ông khuân đồ đạc ra chất chen ở đầu cầu thang, phòng khi lũ chim đục thủng được phòng ngủ của hai đứa nhỏ.
Tiếng vợ ông cất lên:
- Xuống đây anh Nat, anh làm gì ở trên đó?
- Anh xuống ngay đây, anh chỉ dời chỗ mấy món đồ để chèn trên này cho chắc thôi.
Ông không muốn vợ ông lên đây, ông không muốn bà ấy nghe tiếng mổ lộp độp trong phòng ngủ, tiếng cánh chim đập vào cửa.
Sau khi đê nghị bà ấy làm điểm tâm, ông chẳng biết mình đã nhìn chằm chặp vào đồng hồ từ lúc nào. Ông nhìn những chiếc kim quay chầm chậm trên mặt số. Nếu giả thuyết của ông sai, nếu bọn chim không ngừng tấn công lúc triều xuống, gia đình ông đành chịu thua bọn chim. Gia đình ông không thể tiếp tục một ngày nữa. Thiếu không khí, thiếu nhiên liệu, không được nghỉ ngơi...
Một tiếng xẹc xuyên qua tai ông, xua đuổi hẳn cơn buồn ngủ bất thần không thể cưỡng được.
- Cái gì đó, bây giờ đến chuyện gì? Ông hỏi sẵng.
- Tiếng cái radio xẹc đó. Em vẫn canh đồng hồ. Gần bảy giờ rồi.
Tiếng xẹc xẹc quen thuộc của cái radio đem lại sức sống mới.
Họ chờ đợi.
Chiếc đồng hồ ở bếp điểm bảy giờ.
Tiếng xẹc xẹc tiếp tục. Vẫn chưa có tiếng chuông London, không có nhạc phát ra từ radio như thường lệ.
Họ đợi thêm mười lăm phút nữa. Vẫn không có phát thanh, chẳng có bản tin.
Cuối cùng ông nói:
- Chúng ta nghe lộn giờ rồi. Họ đã thông báo là đến tám giờ mới phát tin.
Họ cứ để radio mở.
Nat cũng nghĩ tới mấy cục pin không biết còn xài được bao lâu. Nếu hết pin làm sao nghe được chỉ thị.
- Trời sáng rồi, anh Nat ơi. Em không nhìn thấy nhưng em cảm thấy rạng sáng. Và anh nghe mà xem, lũ chim không còn mổ mạnh như trước nữa.
Bà ấy nói đúng. Tiếng cào, tiếng gỗ rách giảm đi từng phút một. Tiếng lao xao tranh chỗ đậu trên gờ cửa sổ, trên bậc thềm cũng giảm rõ rệt. Đúng là triều đang rút.
Đến tám giờ, chẳng còn tiếng động nào nữa. Chỉ còn tiếng gió hú và những tiếng xẹc xẹc từ radio. Yên lặng sau cùng cũng mơn trớn, ru ngủ những đứa bé. Chúng thiu thiu ngủ.
Đến tám giờ ba mươi, Nat tắt radio.
- Chúng ta sẽ lỡ bản tin mất.
- Sẽ chẳng có bản tin nào đâu. Ta phải lo liệu lấy thôi em ạ.
Nat ra cửa, từ từ gỡ những chướng ngại vật chẹn cửa ra. Ông kéo chốt cửa, lấy chân gạt những xác chim sang một bên lấy lối ra. Ông bước ra khỏi cửa, hít thở không khí trong mát.
Hôm nay ông phải làm việc sáu tiếng lúc trời còn sáng, ông phải dưỡng sức tối đa, không thể phí sức một chút nào.
Thực phẩm, ánh sáng và nhiên liệu cũng tối cần thiết. Nếu kiếm được đủ thì gia đình ông sẽ cầm cự được một đêm nữa.
Nat bước ra vườn. Lạ chưa, lũ chim sống còn đây. Những con hải âu đã bay ra biển cưỡi sóng như thường lệ. Chúng tìm thức ăn ngoài biển và đợi triều dâng lại tấn công.
Lũ chim đất liền thì khác hẳn, chúng quan sát, chờ đợi. Nat thấy chúng trong bờ rào cây xanh, trên nương rẫy, chen chúc nhau trên cây khắp cánh đồng. Hàng hàng, lớp lớp chim, yên lặng, chẳng làm gì cả.
Ông tiến đến cuối vườn.
Lũ chim không nhúc nhích. Chúng yên lặng theo dõi ông.
Hết