Thứ Bảy, 1 tháng 1, 1972

Tiếng gọi nơi hoang dã - Chương 4/7 - Jack London - Văn học nước ngoài

Thông tin truyện

Tiếng gọi nơi hoang dã Chương 4 : Đêvơ
Tác giả : Jack London
Quốc gia : Mỹ Thể loại : Văn học nước ngoài Số chương : 7  Người dịch : đang cập nhật
Đọc truyện

Serve 1

- Ơ! Trông kìa! Tớ nói không sai, cái con Bấc rõ bằng hai con quỷ dữ chưa nào.  Đó là lời Phrăngxoa thốt lên sáng hôm sau, khi anh phát hiện Xpít biến mất, còn Bấc thì mình đầy thương tích. Anh kéo Bấc đến gần ngọn lửa, và dưới ánh lửa, anh chỉ vào những vết cắn.  - Cái con Xpít ấy, hắn đánh thật khủng khiếp. Perôn vừa xem xét các vết toạc và vết thủng há hoác vừa nói.  - Còn cái con Bấc này, hắn đánh khủng khiếp gấp đôi. Phrăngxoa đáp:  - Thôi bây giờ thì ta sẽ đi được nhanh. Không còn Xpít nữa, là không còn rắc rối nữa, chắc chắn như thế.  Trong khi Perôn buộc lại món đồ lề đóng trại và chất các thứ lên xe, anh chàng lái xe tiến hành thắng đai cương vào lũ chó.  Bấc lon ton chạy lên vị trí của Xpít trước đây, ở đầu đàn.  Nhưng Phrăngxoa không để ý đến nó, lại đưa Xônlếch đến cương vị đang được khao kháo đó. Theo anh, trong số chó còn lại, Xônlếch là con đầu đàn tốt nhất.  Bấc giận dữ nhảy bổ vào, đánh bật Xônlếch lại, và đứng vào chỗ ấy.  Phrăngxoa vỗ đùi thích thú reo lên:  - Ơ kìa! Ơ kìa! Trông con Bấc kìa! Hắn giết chết con Xpít, rồi hắn tưởng là hắn thay được Xpít cơ đấy!  Rồi anh thốt lên:  - Cút đi! Xéo!  Nhưng Bấc cứ ỳ ra đấy, không nhúc nhích.  Anh tóm lấy gáy Bấc, và mặc dù Bấc gầm gừ với giọng hăm doạ, anh lôi Bấc ra một bên và lại đặt Xônlếch vào chỗ ấy. Con chó già không muốn thế, và tỏ rõ ý là nó sợ Bấc. Phrăngxoa không hề lay chuyển, anh cứ làm theo ý anh, nhưng khi anh vừa quay lưng thì Bấc lại hất Xônlếch ra khỏi chỗ, còn Xônlếch thì cũng sẵn sàng bỏ đi chứ chả thiết tha chút nào.  Phrăngxoa nổi giận:  -Nào, đồ khốn! Bây giờ thì tao cho mày một trận.  Anh thét lên và trở lại với chiếc dùi cui nặng trong tay.  Bấc vụt nhớ lại con người mặc áo nịt đỏ, nó từ từ bước giật lùi. Nó cũng không còn tìm cách xông vào đánh Xônlếch, khi lão này lại một lần nữa được lôi lên. Nhưng nó lượn vòng sát ngay ngoài tầm chiếc dùi cui, gầm gào quyết liệt và điên giận. Và trong khi lượn vòng, nó vẫn để mắt theo dõi chiếc dùi cui để tránh, nếu Phrăngxoa ném vào nó, bởi vì đối với cái khoản dùi cui này, Bấc đã lắm kinh nghiệm rồi.  Anh chàng đánh xe bắt tay vào việc của mình, và khi anh đã chuẩn bị sẵn sàng để đặt Bấc vào vị trí cũ của nó, phía trước Đêvơ, anh gọi Bấc.  Bấc giật lùi hai, ba bước.  Sau vài lần như vậy, Phrăngxoa vứt chiếc dùi cui xuống đất, vì anh tưởng rằng Bấc sợ bị đánh đòn.  Nhưng không phải.  Bấc tỏ thái độ chống đối rõ ràng. Không phải nó muốn tránh trận đòn dùi cui, mà nó muốn chiếm được cương vị đầu đàn. Cương vị ấy phải là của nó. Nó có quyền xứng đáng được hưởng. Nó đã chiến đấu mà giành được, thì nó sẽ không thể nào vừa lòng với một địa vị thấp kém hơn.  Perôn cũng phải ra tay. Cả hai người đuổi Bấc chạy quanh trong gần một tiếng đồng hồ. Họ ném dùi cui vào nó. Nó né tránh. Họ chửi rủa nó, chửi cả cha ông đã sinh ra nó, chửi rủa tất cả con cái chút chít mà nó sẽ sản sinh ra, chửi rủa mọi sợi lông trên mình nó, mọi giọt máu trong thân thể nó.  Còn nó, nó trả lời lại những câu chửi bằng những tiếng gầm gừ, và cứ giữ khoảng cách ngoài tầm tay hai người. Nó chả tìm cách bỏ chạy xa, mà chỉ lùi, hết quanh bên này, lại quanh bên nọ xung quanh nơi đóng trại, hiển nhiên tỏ ý báo cho họ biết rằng, khi nào điều mong muốn của nó được toại nguyện, thì nó sẽ vào chỗ và sẽ ngoan ngoãn.  Phrăngxoa ngồi xuống vò đầu bứt tai. Perôn cứ nhìn đồng hồ rồi rủa. Thời gian bay qua nhanh, đáng lẽ họ đã lên đường được một tiếng rồi. Phrăngxoa lại vò đầu bứt tóc. Anh lắc đầu rồi quay sang nhăn nhở, cười ngao ngán với anh chàng giao liên. Perôn nhún vai, ý bảo họ bị thua nó rồi. Phrăngxoa bèn đến chỗ Xônlếch đứng, rồi gọi Bấc.  Thế là Bấc cười, cười theo kiểu của chó, nhưng vẫn đứng cách một khoảng. Phrăngxoa cởi các dây buộc Xônlếch ra, rồi đưa Xônlếch trở về chỗ cũ. Đàn chó được thắng vào xe, nối liền nhau thành một hàng không gián đoạn, sẵn sàng lên đường. Bây giờ thì không còn chỗ nào khác cho Bấc, ngoài chỗ đứng đầu đàn kia. Lần nữa, Phrăngxoa lên tiếng gọi, và lần nữa Bấc lại cười nhưng cứ đứng xa.  - Vứt chiếc dùi cui đi! Perôn ra lệnh.  Phrăngxoa làm theo.  Thế là Bấc lon ton chạy vào, cười đắc thắng, và quay mình đứng vào chỗ đầu đàn chó. Đai cương được thắng vào mình nó.  Chiếc xe trượt phá vỡ lớp băng bám giữ ở càng, lướt tới. Và cùng với hai người chạy bộ, tất cả đàn chó lao nhanh về phía con đường trên mặt sông.  Dù trước đây, anh chàng đánh xe chó đã đánh giá Bấc khá cao, khi anh bảo là Bấc bằng hai con quỷ dữ, nhưng đến bây giờ, khi ngày lao động hãy còn dài, trời còn sớm sủa, anh đã nhận thấy là mình hãy còn đánh giá thấp Bấc.  Vụt một cái, Bấc đảm nhiệm trôi chảy ngay công việc đầu đàn. Và ở chỗ nào cần phải có sự phán xét, cần suy nghĩ nhanh, hành động nhanh, thì ở đấy Bấc đã tỏ ra xuất sắc hơn cả Xpít, mà trước kia thì Phrăngxoa chưa bao giờ gặp con chó nào sánh kịp Xpít cả.  Đặc biệt Bấc trội hẳn trong vấn đề bắt lũ bạn nghề phải theo ý mình và phải răm rắp vào khuôn phép.  Đêvơ và Xônlếch thì chả màng bận tâm gì đến sự thay đổi kẻ cầm đầu. Đó không phải là việc của chúng. Việc của chúng là lao động, và lao động cật lực, trong vòng đai cương. Chừng nào điều đó không bị ai quấy rầy, thì có xảy ra việc gì cũng mặc, chúng chả cần để ý tới. Ngay cả tên Bili lành như đất kia có lên làm chỉ huy thì chúng cũng chấp nhận thôi, chả việc quái gì phải thắc mắc, nếu như nó duy trì được trật tự.  Còn những con chó khác trong đàn, thì trong những ngày cuối cùng của Xpít, chúng đã trở thành ngỗ ngược, nhưng bây giờ, chúng ngạc nhiên hết sức khi thấy Bấc lại ghép chúng vào kỷ luật. Paicơ, ở vị trí kéo xe sát ngay sau Bấc, từ trước đến nay chỉ kéo lấy lệ vì bị bắt buộc, chứ chưa bao giờ chịu dấn thêm được một lạng nào của trọng lượng mình nó vào chiếc day da quàng ngang ức, ấy thế mà lần này liên tiếp bị hất lắc, nhắn nhở luôn vì cái tội lười nhác, nên trước khi ngày lao động đầu tiên kết thúc, nó đã chịu nai lưng ra kéo mạnh hơn bất kỳ lúc nào trước đây trong đời nó. Đêm đóng trại đầu tiên, Jô, con chó cáu bẳn, bị trừng trị đến nơi đến chốn, một điều mà trước kia Xpít không bao giờ làm nổi. Bấc đơn giản chỉ có dùng cái cái thể xác nặng cân hơn hẳn của mình mà trùm lên Jô, làm cho hắn ngột ngạt, rồi tới tấp thọc cắn, cho đến khi hắn thôi không còn dám táp lại nữa và bắt đầu phải rên rỉ để xin tha.  Khí thế chung của đàn chó lập tức khá lên trông thấy. Nó đã trở lại với sự thống nhất trước kia. Và một lần nữa, mọi con như một, lại nhảy cùng một nhịp trong vòng dây kéo.  Tại khu vực Thác Rinh, đàn được bổ sung thêm hai con chó Eskimo địa phương. Tích và Kuna. Bấc đã kèm cặp đưa chúng vào làm quen với công việc một cách mau lẹ đến nỗi Phrăngxoa phải sửng sốt kêu lên:  -Trời đất quỷ thần! Chưa có bao giờ có con chó nào như con Bấc cả! Chưa bao giờ! Hắn đáng đến một ngàn đôla ấy chứ!... Ê! Cậu thấy thế nào, Perôn?  Và Perôn gật đầu. Lúc này anh đã vượt được kỷ lục, và càng ngày lại càng được dôi thêm. Con đường trên băng đã trở nên tốt tuyệt vời, được nện chặt và rắn chắc, và không có tuyết mới rơi thêm khiến phải chiến đấu để vượt qua. Trời không quá rét. Nhiệt độ tụt xuống âm 50 độ và dừng lại mức đó trong suốt chuyến đi. Hai người thay nhau khi ngồi xe, khi chạy bộ, bắt lũ chó thường xuyên chăm chỉ phóng tới, hoạ hoằn mới phải dừng lại đôi lúc.  Con sông "Ba Mươi Dặm" tương đối phủ kín băng, và chỉ trong một ngày chạy ra, họ vượt được trọn cả quãng đường đã ngốn mất của họ mười ngày lúc đi vào. Họ chạy một thôi phóng qua được sáu mươi dặm từ bờ hồ Lơ Bácgiơ đến thác "Ngựa trắng". Qua các hồ Mác-ê, Têghiê và Bennét (dãy hồ dài 70 dặm), đàn chó lao nhanh đến nỗi người đến phiên chạy bộ phải túm lấy 1 sợi dây cho chiếc xe lôi tuột mình theo đằng sau.  Đến đêm cuối của tuần thứ hai, họ đã leo lên đỉnh "Đèo Tuyết" rồi đổ dốc xuống bờ biển, nhìn thấy dưới chân mình lấp lánh những đốm ánh sáng của thành phố Xkeguê và của những con tàu trên mặt nước.  Thật là một chuyến chạy kỷ lục.  Trong mười bốn ngày liền, mỗi ngày họ chạy được trung bình bốn mươi dặm.  Tại Xkeguê, suốt hai ngày, Perôn và Phrăngxoa ưỡn ngực tự hào, phấn khởi đi lên đi xuống dọc đường phố chính và tới tấp được người ta mời đánh chén, trong khi đó thì đàn chó của hai anh liên tục bị vây kín giữa một đám đông người dạy chó và chủ chó kéo xe kéo đến ngắm nghía ngưỡng mộ.  Nhưng rồi có ba, bốn tên vô lại từ miền Tây đến, với mưu đồ quơ sạch của cải trong thành phố, được người ta "thưởng" cho những loạt đạn lỗ chỗ khắp người, chết thẳng cẳng. Thế là sự chú ý của công chúng lại chuyển sang mục tiêu khác.  Tiếp đó, có lệnh điều động của chính phú truyền xuống, Phrăngxoa gọi Bấc đến, quàng tay ôm lấy nó, gục đầu vào mình nó, khóc từ biệt.  Đó là phút cuối cùng cạnh Phrăngxoa và Perôn.  Cũng như bao người khác trước đây, họ đi ngang qua rồi biến khỏi cuộc đời Bấc, không bao giờ trở lại. Một chủng người lai Xcôtlen tiếp nhận Bấc và lũ bạn nghề của nó. Rồi cùng với mười đàn chó kéo xe khác, Bấc bắt đầu ngược trở lại con đường chán ngắt, hướng về Đoxân.  Bây giờ thì không còn chạy được nhẹ nhàng nữa, cũng không còn kỷ lục về thời gian, mà là ngày ngày lao động cực nhọc, nặng nề, kéo theo sau một khối nặng trình trịch, bởi vì lần này là đoàn xe chở thư, mang những lời nhắn gửi từ khắp nơi chuyển đến những con người đang tìm vàng giữa bóng tối vùng Bắc Cực.  Bấc chả thích, nhưng nó đủ nghị lực chịu đựng được công việc, tự hào với công việc ấy theo lối của Đêvơ và Xônlếch, và lo liệu sao cho lũ bạn của mình, dù chúng có tự hào với việc ấy hay không, cũng phải đóng góp phần chính đáng của chúng.  Cuộc sống thật là đơn điệu, vận động đều đều như cái máy. Ngày này giống hệt ngày khác. Đến giờ nào đó mỗi buổi sáng tinh mơ, những anh đều bếp trở dậy, lửa lập loè nhóm lên, rồi tất cả ăn bữa sáng. Tiếp đó, trong khi một số người nhổ trại, thì một số khác thắng đai cương vào chó, để kịp lên đường vào khoảng một tiếng trước khi trời rạng sáng. Đêm đến lại đóng trại. Người dựng lều, người đi hái củi và chặt cành thông lót chỗ nằm, một số khác mang nước hoặc những tảng băng đến cho những anh đầu bếp.  Các con chó cũng được ăn uống. Đối với chúng, đây là tiết mục hấp dẫn nhất trong ngày. Ngoài ra, sau khi chén xong khẩu phần cá, chúng còn có thêm cái thú đi chơi rong, loanh quanh dạo khoảng chừng một tiếng với những con chó khác. Lũ chó đông đến hơn một trăm con có lẻ. Trong bọn chúng, có những đấu sĩ hung dữ, nhưng chỉ cần ba trận với những tên hung dữ nhất là đã đủ đưa Bấc lên địa vị thống lĩnh. Từ đó, mỗi khi Bấc dựng đứng bờm lên và nhe răng ra là chúng liền tránh lối cho nó đi.  Có lẽ điều mà Bấc yêu thích hơn cả là nằm bên đống lửa, chân sau xếp dưới bụng, chân trước duỗi trước mặt, đầu ngẩng lên, đôi mắt chập chờn mơ màng nhìn ngọn lửa. Thỉnh thoảng, nó nhớ lại ngôi nhà lớn của ông thẩm Milơ trong thung lũng Xanta Clara mơn man ánh nắng, cái bể bơi xây ximăng, nhớ lại Idaben, con chó Mêhicô trần trụi, và Put, con chó Nhật bản, nhưng thường hay nhớ nhất là cái lão mặc áo nịt đỏ, cái chết của Cơli, cuộc chiến đấu dữ dội với Xpít và mọi thứ ngon lành mà nó đã ăn và muốn ăn. Trong lòng nó không có cái nỗi nhớ nhà da diết. Vùng đất phương Nam đầy ánh nắng đã rất mờ nhạt và xa xăm, và những ký ức kia không còn có sức tác động gì đối với nó. Có những thứ khác có sức mạnh hơn rất nhiều. Đó là những ký ức di truyền của dòng giống, những ký ức đã tạo ra cho những vật mà trước đây nó chưa hề nhìn thấy bao giờ một cái vẻ thật là thân thuộc. Những bản năng (không có gì khác hơn là những ký ức của tổ tiên nó dần dần trở thành thói quen) vốn đã tắt dần đi trong những thời kỳ về cuối, vậy mà nay, đến nó, tuy càng về cuối hơn nữa, đã trỗi dậy và sống lại. Thỉnh thoảng, giữa lúc nó nằm thu hình ở đấy, chập chờn mơ màng nhìn ngọn lửa, nó bỗng thấy dường như ánh bập bùng kia là từ một thứ lửa khác phát ra, và nó nhìn thấy con người trước mặt nó không phải là anh chàng đầu bếp người lai kia nữa mà là một con người khác hẳn. Con người này chân ngắn hơn, tay dài hơn, có những bắp thịt cuồn cuộn như dây chão và cồn lên nhiều chứ không phải những bắp thịt tròn trĩnh căng phồng. Tóc của người này dài và dài như tấm thảm, và đầu gã từ đôi mắt trở lên vát hẳn về phía sau khuất vào trong đám tre rậm ấy. Gã phát ra những tiếng kỳ lạ và có vẻ như rất sợ bóng tối, luồng mắt liên tục xoáy vào màn đêm dày đặc, nắm khư khư trong bàn tay thõng quá đầu gối một cái gậy, đầu gậy có hòn đá nặng buộc chặt. Gã hầu như trần truồng, chỉ có một tấm da rách tả tơi và cháy sém rủ lưng chừng xuống mình gã, nhưng người gã phủ đầy lông lá. Ở một vài chỗ, ngang ngực và vai, và dọc mặt ngoài cánh tay cùng bắp đùi của gã, lông quện lại thành những đệm dày cộp. Gã không đứng thẳng, mà thân gã từ hông trở lên đổ về phía trước, đầu gối hơi khuỵu xuống. Toàn thân gã toát ra một vẻ đặc biệt ,như mang tính đàn hồi, hoặc như đang nhún xuống sẵn sàng bật nẩy, gần giống như con mèo, và một vẻ cảnh giác thính nhạy của kẻ sống thường xuyên trong mối hãi hùng, lo sợ những thứ nhìn thấy được cũng như không nhìn thấy được. Có những lúc, con người lông lá đó lại ngồi chồm hỗm bên đống lửa, đầu kê giữa hai chân mà ngủ. Những lúc ấy cùi tay gã chống trên đầu gối, hai bàn tay chắp lại trên đầu như muốn dùng hai cánh tay lông lá để che mưa. Và phía bên kia đống lửa, trong vòng tròn bóng tối vây quanh, Bấc có thể nhìn thấy nhiều đốm than cháy sáng óng ánh, từng đôi một, khi nào cũng từng đôi, từng đôi một, mà Bấc biết là những cặp mắt của lũ thú lớn săn mồi. Bấc có thể nghe thấy tiếng va chạm xoàn xoạt của thân thể chúng băng qua bụi bờ và những tiếng độ chúng gây ra trong đêm thanh vắng. Trong khi Bấc nằm mơ màng ở đấy, cạnh bờ sông I-u-con, với đôi mắt lờ đờ chập chờn nhìn ánh lửa, tất cả những thứ âm thanh và cảnh vật ấy của một thế giới khác biệt, thường làm nó rởn cả lông dọc theo sống lưng, bờm lông ngang vai và cổ dựng ngược cả lên, cho đến khi nó bật ra một tiếng rên âm thầm và nghẹn tắc hoặc một tiếng gừ khe khẽ, và anh chàng người lai đầu bếp lại lên tiếng quát: "Ê! Tên Bấc kia! Tỉnh dậy đi!" Thế là cái thế giới kia lập tức biến mất, và cái thế giới thực lại hiện ra trước mắt nó. Nó đứng dậy, ngáp dài rồi duỗi mình như thể vừa rồi nó đã ngủ thật.  Chuyến đi ấy thật là gian khổ, với khối bưu kiện trình trịch kéo theo sau, và công việc nặng nhọc làm lũ chó kiệt sức dần. Khi tới Đoxân, chúng sút hẳn cân và trông thật tiều tuỵ. Đáng lẽ ra, chúng phải được nghỉ ít nhất là mươi ngày hoặc một tuần, thế nhưng chỉ hai ngày sau, chúng lại phải lên đường, từ mé rặng Berơt tụt xuống bờ sông I-u-con, kéo theo một khối nặng thư từ chuyển ra bên ngoài. Lũ chó mệt nhoài, những chàng lái xe cằn nhằn. Và một điều khiến tình hình càng thêm điêu đứng là ngày nào cũng có tuyết rơi. Điều đó có nghĩa là mặt đường mềm nhũn ra, ma sát vào càng xe lớn hơn, và đàn chó phải kéo nặng nhọc hơn.  Tuy nhiên các chàng lái xe cũng công bằng, và họ cố gắng hết sức chăm lo cho chúng. Đêm đêm dừng lại, họ săn sóc đàn chó trước tiên. Chúng được ăn trước khi người ăn, và mỗi người đều chăm nom xem xét các bàn chân của lũ chó xong rồi mới lo sắp xếp chỗ ngủ cho mình. Tuy vậy, sức khoẻ của chúng vẫn suy sụp dần.  Kể từ đầu mùa đông, chúng đã chạy 1800 dặm quả là thấm thía, cả đối với những con vật dai sức nhất. Bấc chịu đựng được, đồng thời phải trông coi cho lũ bạn nghề của nó tiếp tục làm việc tốt và duy trì kỷ luật, mặc dù bản thân nó tiếp tục làm việc tốt. Bili đêm nào cũng kêu la rên rỉ trong giấc ngủ và trở nên cáu bẳn hơn bao giờ hết. Lão Xônlếch thì không kẻ nào dám đến gần, cả bên mắt mù và bên mắt không mù của lão.  Nhưng Đêvơ là kẻ đau đớn nhiều nhất. Có cái gì đó không ổn định trong mình gã. Gã trở nên ủ ê hơn và dễ bẳn tính hơn. Lúc đứng lại đóng trại nghỉ là gã lập tức đào tổ nằm, và người lái xe phải đưa thức ăn đến tận chỗ nằm cho gã. Mỗi khi đã được tháo ra khỏi đai cương và nằm xuống là gã nằm miết, không đứng dậy nữa, cho đến tận giờ thắng đai cương sáng hôm sau. Thỉnh thoảng trong vòng dây kéo, thì bị giật mạnh vì chiếc xe trượt tuyết dừng đột ngột hoặc vì kéo căng dây để lôi xe đi, gã kêu thét lên đau đớn.  Người lái xe xem xét gã cẩn thận, nhưng không phát hiện ra được cái gì cả. Tất cả các chàng lái xe đều quan tâm đến tình trạng sức khoẻ của gã. Họ trao đổi về cái đau của gã trong khi họ ngồi ăn, trong khi họ cùng nhau rít tẩu thuốc cuối cùng trước lúc đi ngủ.  Và một đêm nọ, họ cùng nhau khám bệnh cho gã.  Họ bê gã từ trong ổ nằm đến bên đống lửa, rồi họ đè, họ nắn, họ chọc vào chỗ này chỗ nọ cho đến khi gã kêu rú lên nhiều lần. Họ biết gã bị đau cái gì đó ở bên trong, nhưng họ không xác định được là cái gì, không tìm thấy được chỗ xương nào bị gãy, cũng không tìm ra được là đau ở đâu.  Vào lúc đoàn người và chó đến mỏm núi Kexiơ, gã đã quá yếu, đến nỗi gã nhiều lần ngã xuống trong vòng dây kéo. Anh chàng người lai Xcôtlen hô dừng lại và đưa gã ra ngoài đàn chó, buộc con chó kế tiếp là Xônlếch vào chiêc xe trượt. Anh có ý cho Đêvơ được nghỉ ngơi, để cho gã chạy không ở đằng sau xe. Nhưng, dù ốm đến như vậy, Đêvơ rất phật ý vì bị đưa ra ngoài, gã càu nhàu và gầm gừ khi người ta tháo các dây kéo ra khỏi mình gã, và rên rỉ đến não cả lòng khi gã nhìn thấy Xônlếch thay thế vào vị trí mà gã đã giữ và phục vụ từ bao lâu nay. Bởi vì lao động trên vệt đường mòn chính là niềm tự hào của gã, và dù ốm đến gần chết gã vẫn không thể nào chịu được khi thấy mộ con chó khác gánh mất phần việc của gã.  Khi chiếc xe trượt tuyết bắt đầu chuyển động, gã loạng choạng thì thụp trong bãi tuyết mềm dọc bên đường, dùng răng công kích Xônlếch, đâm bổ vào Xônlếch và cố gắng để hất Xônlếch sang phía tuyết mềm bên kia đường, ra sức tìm cách nhảy vào trong vòng dây kéo và len vào giữa Xônlếch và chiếc xe trượt và suốt trong quá trình đó gã rên rỉ, kêu ăng ẳng, rú lên những tiếng sầu não và đau đớn.  Đêvơ cự tuyệt không chịu chạy thanh thản trên đường mòn phía sau xe, là nơi gã có thể chạy dễ dàng, mà cứ tiếp tục loạng choạng lặn lội trong đám tuyết mềm dọc theo đường là nơi khó đi nhất, cho đến khi gã kiệt sức ngã xuống. Gã nằm bẹp nơi gã vừa ngã gục, gào lên não nùng trong khi dãy dài các xe trượt khuấy tung bụi tuyết nối tiếp lướt qua. Thu hết sức tàn, gã cố gắng đứng dậy lảo đảo bước theo sau, cho đến khi đoàn xe dừng lại một lần nữa. Nhân lúc này, gã loạng choạng cố tiến lên vượt qua những chiếc xe trượt cho đến khi tới được chiếc xe của mình, và dừng lại bên cạnh Xônlếch.  Người lái xe nán lại một lúc để đến cạnh người đi sau châm nhờ tẩu thuốc. Đoạn anh quay lại và thúc đàn chó bước đi. Nhưng khi cất bước để ngoặt ra giữa đường thì kỳ lạ chưa, chúng đi nhẹ tênh không phải ráng sức gì cả. Chúng băn khoăn, quay đầu lại nhìn rồi đứng sững kinh ngạc. Người lái xe đứng sửng sốt. Chiếc xe trượt vẫn nguyên tại chỗ, chưa dịch đi tí nào. Anh gọi các bạn anh cùng chứng kiến cảnh tượng vừa xảy ra. Đêvơ đã cắn đứt cả 2 sợi dây kéo của Xônlếch từ bao giờ và đang đứng ngay trước chiếc xe trượt tuyết ở đúng vị trí của gã trước kia. Qua đôi mắt của Đêvơ, người ta thấy gã đang van nài xin được tiếp tục ở lại vị trí ấy.  Người lái xe thật là bối rối. Các bạn anh sôi nổi bàn tán. Họ nói rằng một con chó có thể đau lòng đến như thế nào khi bị người ta từ chối không giao cho nó công việc mà người ta biết là làm thì nó chết mất. Họ kể lại những chuyện mà họ đã biết về những con chó quá già không thể lao động nặng được nữa hoặc bị thương, khi bị tháo ra khỏi các dây thắng thì buồn rầu mà chết. Họ cũng bàn rằng, vì Đêvơ thế nào rồi cũng chết, âu là cứ cho gã được chết trong vòng đai cương, cho gã vui lòng thì cũng là làm ơn cho gã. Do đó, họ lại thắng đai cương vào cho gã.  Và thế là gã lại đầy vẻ tự hào gò lưng kéo như xưa, mặc dù nhiều lúc gã đã không nén được những tiếng kêu rú lên vì cơn đau bên trong cắn xé gã. Đôi khi gã ngã xuống, bị kéo lả đi trong vòng dây thắng. Rồi có lần, chiếc xe trượt đè lên gã, làm bị thương chân sau của gã, khiến sau đó gã phải chạy khập khiễng, nhưng gã vẫn ráng sức chịu đựng, mãi cho đến khi dừng lại đóng trại nghỉ đêm.  Sang hôm sau, gã đã quá yếu xem chừng khó mà đi được. Đến giờ thắng đai cương, gã cố lết đến chỗ người lái xe của mình. Bằng những cố gắng vất vả, gã ráng sức đứng lên, lảo đảo, rồi lại ngã vật xuống. Nhưng rồi gã lại vặn mình, chậm chạp trườn lên, bò về phía những bạn nghề của gã đang được thắng cương. Gã duỗi hai chân trước ra và bằng thứ động tác giật mạnh, kéo cả thân mình lên, rồi lần nữa lại duỗi hai chân trước ra và lại co mình lên, nhích được thêm vài inch nữa. Nhưng sức gã kiệt dần.  Và phút cuối cùng các bạn nghề của gã còn nhìn thấy gã là lúc gã đang nằm thở hổn hển trên mặt tuyết, nhìn theo chúng bằng đôi mắt khát khao. Sau đó, chúng vẫn còn nghe được tiếng hú thê thảm của gã vọng theo mãi cho đến khi chúng đi khuất hẳn đằng sau rặng cây bên dòng sông.  Đến đây, đoàn xe dừng lại. Anh chàng người lai Xcôtlen chậm rãi quay trở về nơi họ vừa ra đi. Tất cả im bặt không ai chuyện trò nữa. Một tiếng súng lục vang lên.  Anh người lai hối hả quay lại. Nhưng chiếc roi vút trong không khí, những chiếc nhạc ở cổ chó rung lên leng keng vui vẻ, những chiếc xe trượt lại khuấy tung bụi tuyết lướt trên đường.  Nhưng Bấc hiểu, cũng như mọi con chó khác đều hiểu, cái gì đã xảy ra phía đằng sau rặng cây bên dòng sông.
Hết chương 4
Hết : Chương 4 - Xem tiếp : Chương 5
Chọn chương để xem
Chương : 01 02 03 04 05 06 07

Serve 1

- Ơ! Trông kìa! Tớ nói không sai, cái con Bấc rõ bằng hai con quỷ dữ chưa nào. 
Đó là lời Phrăngxoa thốt lên sáng hôm sau, khi anh phát hiện Xpít biến mất, còn Bấc thì mình đầy thương tích. Anh kéo Bấc đến gần ngọn lửa, và dưới ánh lửa, anh chỉ vào những vết cắn. 
- Cái con Xpít ấy, hắn đánh thật khủng khiếp. Perôn vừa xem xét các vết toạc và vết thủng há hoác vừa nói. 
- Còn cái con Bấc này, hắn đánh khủng khiếp gấp đôi. Phrăngxoa đáp: 
- Thôi bây giờ thì ta sẽ đi được nhanh. Không còn Xpít nữa, là không còn rắc rối nữa, chắc chắn như thế. 
Trong khi Perôn buộc lại món đồ lề đóng trại và chất các thứ lên xe, anh chàng lái xe tiến hành thắng đai cương vào lũ chó. 
Bấc lon ton chạy lên vị trí của Xpít trước đây, ở đầu đàn. 
Nhưng Phrăngxoa không để ý đến nó, lại đưa Xônlếch đến cương vị đang được khao kháo đó. Theo anh, trong số chó còn lại, Xônlếch là con đầu đàn tốt nhất. 
Bấc giận dữ nhảy bổ vào, đánh bật Xônlếch lại, và đứng vào chỗ ấy. 
Phrăngxoa vỗ đùi thích thú reo lên: 
- Ơ kìa! Ơ kìa! Trông con Bấc kìa! Hắn giết chết con Xpít, rồi hắn tưởng là hắn thay được Xpít cơ đấy! 
Rồi anh thốt lên: 
- Cút đi! Xéo! 
Nhưng Bấc cứ ỳ ra đấy, không nhúc nhích. 
Anh tóm lấy gáy Bấc, và mặc dù Bấc gầm gừ với giọng hăm doạ, anh lôi Bấc ra một bên và lại đặt Xônlếch vào chỗ ấy. Con chó già không muốn thế, và tỏ rõ ý là nó sợ Bấc. Phrăngxoa không hề lay chuyển, anh cứ làm theo ý anh, nhưng khi anh vừa quay lưng thì Bấc lại hất Xônlếch ra khỏi chỗ, còn Xônlếch thì cũng sẵn sàng bỏ đi chứ chả thiết tha chút nào. 
Phrăngxoa nổi giận: 
-Nào, đồ khốn! Bây giờ thì tao cho mày một trận. 
Anh thét lên và trở lại với chiếc dùi cui nặng trong tay. 
Bấc vụt nhớ lại con người mặc áo nịt đỏ, nó từ từ bước giật lùi. Nó cũng không còn tìm cách xông vào đánh Xônlếch, khi lão này lại một lần nữa được lôi lên. Nhưng nó lượn vòng sát ngay ngoài tầm chiếc dùi cui, gầm gào quyết liệt và điên giận. Và trong khi lượn vòng, nó vẫn để mắt theo dõi chiếc dùi cui để tránh, nếu Phrăngxoa ném vào nó, bởi vì đối với cái khoản dùi cui này, Bấc đã lắm kinh nghiệm rồi. 
Anh chàng đánh xe bắt tay vào việc của mình, và khi anh đã chuẩn bị sẵn sàng để đặt Bấc vào vị trí cũ của nó, phía trước Đêvơ, anh gọi Bấc. 
Bấc giật lùi hai, ba bước. 
Sau vài lần như vậy, Phrăngxoa vứt chiếc dùi cui xuống đất, vì anh tưởng rằng Bấc sợ bị đánh đòn. 
Nhưng không phải. 
Bấc tỏ thái độ chống đối rõ ràng. Không phải nó muốn tránh trận đòn dùi cui, mà nó muốn chiếm được cương vị đầu đàn. Cương vị ấy phải là của nó. Nó có quyền xứng đáng được hưởng. Nó đã chiến đấu mà giành được, thì nó sẽ không thể nào vừa lòng với một địa vị thấp kém hơn. 
Perôn cũng phải ra tay. Cả hai người đuổi Bấc chạy quanh trong gần một tiếng đồng hồ. Họ ném dùi cui vào nó. Nó né tránh. Họ chửi rủa nó, chửi cả cha ông đã sinh ra nó, chửi rủa tất cả con cái chút chít mà nó sẽ sản sinh ra, chửi rủa mọi sợi lông trên mình nó, mọi giọt máu trong thân thể nó. 
Còn nó, nó trả lời lại những câu chửi bằng những tiếng gầm gừ, và cứ giữ khoảng cách ngoài tầm tay hai người. Nó chả tìm cách bỏ chạy xa, mà chỉ lùi, hết quanh bên này, lại quanh bên nọ xung quanh nơi đóng trại, hiển nhiên tỏ ý báo cho họ biết rằng, khi nào điều mong muốn của nó được toại nguyện, thì nó sẽ vào chỗ và sẽ ngoan ngoãn. 
Phrăngxoa ngồi xuống vò đầu bứt tai. Perôn cứ nhìn đồng hồ rồi rủa. Thời gian bay qua nhanh, đáng lẽ họ đã lên đường được một tiếng rồi. Phrăngxoa lại vò đầu bứt tóc. Anh lắc đầu rồi quay sang nhăn nhở, cười ngao ngán với anh chàng giao liên. Perôn nhún vai, ý bảo họ bị thua nó rồi. Phrăngxoa bèn đến chỗ Xônlếch đứng, rồi gọi Bấc. 
Thế là Bấc cười, cười theo kiểu của chó, nhưng vẫn đứng cách một khoảng.
Phrăngxoa cởi các dây buộc Xônlếch ra, rồi đưa Xônlếch trở về chỗ cũ. Đàn chó được thắng vào xe, nối liền nhau thành một hàng không gián đoạn, sẵn sàng lên đường.
Bây giờ thì không còn chỗ nào khác cho Bấc, ngoài chỗ đứng đầu đàn kia.
Lần nữa, Phrăngxoa lên tiếng gọi, và lần nữa Bấc lại cười nhưng cứ đứng xa. 
- Vứt chiếc dùi cui đi! Perôn ra lệnh. 
Phrăngxoa làm theo. 
Thế là Bấc lon ton chạy vào, cười đắc thắng, và quay mình đứng vào chỗ đầu đàn chó. Đai cương được thắng vào mình nó. 
Chiếc xe trượt phá vỡ lớp băng bám giữ ở càng, lướt tới. Và cùng với hai người chạy bộ, tất cả đàn chó lao nhanh về phía con đường trên mặt sông. 
Dù trước đây, anh chàng đánh xe chó đã đánh giá Bấc khá cao, khi anh bảo là Bấc bằng hai con quỷ dữ, nhưng đến bây giờ, khi ngày lao động hãy còn dài, trời còn sớm sủa, anh đã nhận thấy là mình hãy còn đánh giá thấp Bấc. 
Vụt một cái, Bấc đảm nhiệm trôi chảy ngay công việc đầu đàn. Và ở chỗ nào cần phải có sự phán xét, cần suy nghĩ nhanh, hành động nhanh, thì ở đấy Bấc đã tỏ ra xuất sắc hơn cả Xpít, mà trước kia thì Phrăngxoa chưa bao giờ gặp con chó nào sánh kịp Xpít cả. 
Đặc biệt Bấc trội hẳn trong vấn đề bắt lũ bạn nghề phải theo ý mình và phải răm rắp vào khuôn phép. 
Đêvơ và Xônlếch thì chả màng bận tâm gì đến sự thay đổi kẻ cầm đầu. Đó không phải là việc của chúng. Việc của chúng là lao động, và lao động cật lực, trong vòng đai cương. Chừng nào điều đó không bị ai quấy rầy, thì có xảy ra việc gì cũng mặc, chúng chả cần để ý tới. Ngay cả tên Bili lành như đất kia có lên làm chỉ huy thì chúng cũng chấp nhận thôi, chả việc quái gì phải thắc mắc, nếu như nó duy trì được trật tự. 
Còn những con chó khác trong đàn, thì trong những ngày cuối cùng của Xpít, chúng đã trở thành ngỗ ngược, nhưng bây giờ, chúng ngạc nhiên hết sức khi thấy Bấc lại ghép chúng vào kỷ luật.
Paicơ, ở vị trí kéo xe sát ngay sau Bấc, từ trước đến nay chỉ kéo lấy lệ vì bị bắt buộc, chứ chưa bao giờ chịu dấn thêm được một lạng nào của trọng lượng mình nó vào chiếc day da quàng ngang ức, ấy thế mà lần này liên tiếp bị hất lắc, nhắn nhở luôn vì cái tội lười nhác, nên trước khi ngày lao động đầu tiên kết thúc, nó đã chịu nai lưng ra kéo mạnh hơn bất kỳ lúc nào trước đây trong đời nó. Đêm đóng trại đầu tiên, Jô, con chó cáu bẳn, bị trừng trị đến nơi đến chốn, một điều mà trước kia Xpít không bao giờ làm nổi. Bấc đơn giản chỉ có dùng cái cái thể xác nặng cân hơn hẳn của mình mà trùm lên Jô, làm cho hắn ngột ngạt, rồi tới tấp thọc cắn, cho đến khi hắn thôi không còn dám táp lại nữa và bắt đầu phải rên rỉ để xin tha. 

Khí thế chung của đàn chó lập tức khá lên trông thấy. Nó đã trở lại với sự thống nhất trước kia. Và một lần nữa, mọi con như một, lại nhảy cùng một nhịp trong vòng dây kéo. 
Tại khu vực Thác Rinh, đàn được bổ sung thêm hai con chó Eskimo địa phương. Tích và Kuna. Bấc đã kèm cặp đưa chúng vào làm quen với công việc một cách mau lẹ đến nỗi Phrăngxoa phải sửng sốt kêu lên: 
-Trời đất quỷ thần! Chưa có bao giờ có con chó nào như con Bấc cả! Chưa bao giờ! Hắn đáng đến một ngàn đôla ấy chứ!... Ê! Cậu thấy thế nào, Perôn? 
Và Perôn gật đầu. Lúc này anh đã vượt được kỷ lục, và càng ngày lại càng được dôi thêm. Con đường trên băng đã trở nên tốt tuyệt vời, được nện chặt và rắn chắc, và không có tuyết mới rơi thêm khiến phải chiến đấu để vượt qua. Trời không quá rét. Nhiệt độ tụt xuống âm 50 độ và dừng lại mức đó trong suốt chuyến đi. Hai người thay nhau khi ngồi xe, khi chạy bộ, bắt lũ chó thường xuyên chăm chỉ phóng tới, hoạ hoằn mới phải dừng lại đôi lúc. 
Con sông "Ba Mươi Dặm" tương đối phủ kín băng, và chỉ trong một ngày chạy ra, họ vượt được trọn cả quãng đường đã ngốn mất của họ mười ngày lúc đi vào. Họ chạy một thôi phóng qua được sáu mươi dặm từ bờ hồ Lơ Bácgiơ đến thác "Ngựa trắng". Qua các hồ Mác-ê, Têghiê và Bennét (dãy hồ dài 70 dặm), đàn chó lao nhanh đến nỗi người đến phiên chạy bộ phải túm lấy 1 sợi dây cho chiếc xe lôi tuột mình theo đằng sau. 
Đến đêm cuối của tuần thứ hai, họ đã leo lên đỉnh "Đèo Tuyết" rồi đổ dốc xuống bờ biển, nhìn thấy dưới chân mình lấp lánh những đốm ánh sáng của thành phố Xkeguê và của những con tàu trên mặt nước. 
Thật là một chuyến chạy kỷ lục. 
Trong mười bốn ngày liền, mỗi ngày họ chạy được trung bình bốn mươi dặm. 
Tại Xkeguê, suốt hai ngày, Perôn và Phrăngxoa ưỡn ngực tự hào, phấn khởi đi lên đi xuống dọc đường phố chính và tới tấp được người ta mời đánh chén, trong khi đó thì đàn chó của hai anh liên tục bị vây kín giữa một đám đông người dạy chó và chủ chó kéo xe kéo đến ngắm nghía ngưỡng mộ. 
Nhưng rồi có ba, bốn tên vô lại từ miền Tây đến, với mưu đồ quơ sạch của cải trong thành phố, được người ta "thưởng" cho những loạt đạn lỗ chỗ khắp người, chết thẳng cẳng. Thế là sự chú ý của công chúng lại chuyển sang mục tiêu khác. 
Tiếp đó, có lệnh điều động của chính phú truyền xuống, Phrăngxoa gọi Bấc đến, quàng tay ôm lấy nó, gục đầu vào mình nó, khóc từ biệt. 
Đó là phút cuối cùng cạnh Phrăngxoa và Perôn. 
Cũng như bao người khác trước đây, họ đi ngang qua rồi biến khỏi cuộc đời Bấc, không bao giờ trở lại.
Một chủng người lai Xcôtlen tiếp nhận Bấc và lũ bạn nghề của nó. Rồi cùng với mười đàn chó kéo xe khác, Bấc bắt đầu ngược trở lại con đường chán ngắt, hướng về Đoxân. 
Bây giờ thì không còn chạy được nhẹ nhàng nữa, cũng không còn kỷ lục về thời gian, mà là ngày ngày lao động cực nhọc, nặng nề, kéo theo sau một khối nặng trình trịch, bởi vì lần này là đoàn xe chở thư, mang những lời nhắn gửi từ khắp nơi chuyển đến những con người đang tìm vàng giữa bóng tối vùng Bắc Cực. 
Bấc chả thích, nhưng nó đủ nghị lực chịu đựng được công việc, tự hào với công việc ấy theo lối của Đêvơ và Xônlếch, và lo liệu sao cho lũ bạn của mình, dù chúng có tự hào với việc ấy hay không, cũng phải đóng góp phần chính đáng của chúng. 
Cuộc sống thật là đơn điệu, vận động đều đều như cái máy. Ngày này giống hệt ngày khác. Đến giờ nào đó mỗi buổi sáng tinh mơ, những anh đều bếp trở dậy, lửa lập loè nhóm lên, rồi tất cả ăn bữa sáng. Tiếp đó, trong khi một số người nhổ trại, thì một số khác thắng đai cương vào chó, để kịp lên đường vào khoảng một tiếng trước khi trời rạng sáng. Đêm đến lại đóng trại. Người dựng lều, người đi hái củi và chặt cành thông lót chỗ nằm, một số khác mang nước hoặc những tảng băng đến cho những anh đầu bếp. 
Các con chó cũng được ăn uống. Đối với chúng, đây là tiết mục hấp dẫn nhất trong ngày. Ngoài ra, sau khi chén xong khẩu phần cá, chúng còn có thêm cái thú đi chơi rong, loanh quanh dạo khoảng chừng một tiếng với những con chó khác. Lũ chó đông đến hơn một trăm con có lẻ. Trong bọn chúng, có những đấu sĩ hung dữ, nhưng chỉ cần ba trận với những tên hung dữ nhất là đã đủ đưa Bấc lên địa vị thống lĩnh. Từ đó, mỗi khi Bấc dựng đứng bờm lên và nhe răng ra là chúng liền tránh lối cho nó đi. 
Có lẽ điều mà Bấc yêu thích hơn cả là nằm bên đống lửa, chân sau xếp dưới bụng, chân trước duỗi trước mặt, đầu ngẩng lên, đôi mắt chập chờn mơ màng nhìn ngọn lửa. Thỉnh thoảng, nó nhớ lại ngôi nhà lớn của ông thẩm Milơ trong thung lũng Xanta Clara mơn man ánh nắng, cái bể bơi xây ximăng, nhớ lại Idaben, con chó Mêhicô trần trụi, và Put, con chó Nhật bản, nhưng thường hay nhớ nhất là cái lão mặc áo nịt đỏ, cái chết của Cơli, cuộc chiến đấu dữ dội với Xpít và mọi thứ ngon lành mà nó đã ăn và muốn ăn. Trong lòng nó không có cái nỗi nhớ nhà da diết. Vùng đất phương Nam đầy ánh nắng đã rất mờ nhạt và xa xăm, và những ký ức kia không còn có sức tác động gì đối với nó. Có những thứ khác có sức mạnh hơn rất nhiều. Đó là những ký ức di truyền của dòng giống, những ký ức đã tạo ra cho những vật mà trước đây nó chưa hề nhìn thấy bao giờ một cái vẻ thật là thân thuộc. Những bản năng (không có gì khác hơn là những ký ức của tổ tiên nó dần dần trở thành thói quen) vốn đã tắt dần đi trong những thời kỳ về cuối, vậy mà nay, đến nó, tuy càng về cuối hơn nữa, đã trỗi dậy và sống lại.
Thỉnh thoảng, giữa lúc nó nằm thu hình ở đấy, chập chờn mơ màng nhìn ngọn lửa, nó bỗng thấy dường như ánh bập bùng kia là từ một thứ lửa khác phát ra, và nó nhìn thấy con người trước mặt nó không phải là anh chàng đầu bếp người lai kia nữa mà là một con người khác hẳn. Con người này chân ngắn hơn, tay dài hơn, có những bắp thịt cuồn cuộn như dây chão và cồn lên nhiều chứ không phải những bắp thịt tròn trĩnh căng phồng. Tóc của người này dài và dài như tấm thảm, và đầu gã từ đôi mắt trở lên vát hẳn về phía sau khuất vào trong đám tre rậm ấy. Gã phát ra những tiếng kỳ lạ và có vẻ như rất sợ bóng tối, luồng mắt liên tục xoáy vào màn đêm dày đặc, nắm khư khư trong bàn tay thõng quá đầu gối một cái gậy, đầu gậy có hòn đá nặng buộc chặt. Gã hầu như trần truồng, chỉ có một tấm da rách tả tơi và cháy sém rủ lưng chừng xuống mình gã, nhưng người gã phủ đầy lông lá. Ở một vài chỗ, ngang ngực và vai, và dọc mặt ngoài cánh tay cùng bắp đùi của gã, lông quện lại thành những đệm dày cộp. Gã không đứng thẳng, mà thân gã từ hông trở lên đổ về phía trước, đầu gối hơi khuỵu xuống. Toàn thân gã toát ra một vẻ đặc biệt ,như mang tính đàn hồi, hoặc như đang nhún xuống sẵn sàng bật nẩy, gần giống như con mèo, và một vẻ cảnh giác thính nhạy của kẻ sống thường xuyên trong mối hãi hùng, lo sợ những thứ nhìn thấy được cũng như không nhìn thấy được.
Có những lúc, con người lông lá đó lại ngồi chồm hỗm bên đống lửa, đầu kê giữa hai chân mà ngủ. Những lúc ấy cùi tay gã chống trên đầu gối, hai bàn tay chắp lại trên đầu như muốn dùng hai cánh tay lông lá để che mưa. Và phía bên kia đống lửa, trong vòng tròn bóng tối vây quanh, Bấc có thể nhìn thấy nhiều đốm than cháy sáng óng ánh, từng đôi một, khi nào cũng từng đôi, từng đôi một, mà Bấc biết là những cặp mắt của lũ thú lớn săn mồi. Bấc có thể nghe thấy tiếng va chạm xoàn xoạt của thân thể chúng băng qua bụi bờ và những tiếng độ chúng gây ra trong đêm thanh vắng. Trong khi Bấc nằm mơ màng ở đấy, cạnh bờ sông I-u-con, với đôi mắt lờ đờ chập chờn nhìn ánh lửa, tất cả những thứ âm thanh và cảnh vật ấy của một thế giới khác biệt, thường làm nó rởn cả lông dọc theo sống lưng, bờm lông ngang vai và cổ dựng ngược cả lên, cho đến khi nó bật ra một tiếng rên âm thầm và nghẹn tắc hoặc một tiếng gừ khe khẽ, và anh chàng người lai đầu bếp lại lên tiếng quát: "Ê! Tên Bấc kia! Tỉnh dậy đi!" Thế là cái thế giới kia lập tức biến mất, và cái thế giới thực lại hiện ra trước mắt nó. Nó đứng dậy, ngáp dài rồi duỗi mình như thể vừa rồi nó đã ngủ thật. 



Chuyến đi ấy thật là gian khổ, với khối bưu kiện trình trịch kéo theo sau, và công việc nặng nhọc làm lũ chó kiệt sức dần. Khi tới Đoxân, chúng sút hẳn cân và trông thật tiều tuỵ. Đáng lẽ ra, chúng phải được nghỉ ít nhất là mươi ngày hoặc một tuần, thế nhưng chỉ hai ngày sau, chúng lại phải lên đường, từ mé rặng Berơt tụt xuống bờ sông I-u-con, kéo theo một khối nặng thư từ chuyển ra bên ngoài. Lũ chó mệt nhoài, những chàng lái xe cằn nhằn. Và một điều khiến tình hình càng thêm điêu đứng là ngày nào cũng có tuyết rơi. Điều đó có nghĩa là mặt đường mềm nhũn ra, ma sát vào càng xe lớn hơn, và đàn chó phải kéo nặng nhọc hơn. 
Tuy nhiên các chàng lái xe cũng công bằng, và họ cố gắng hết sức chăm lo cho chúng.
Đêm đêm dừng lại, họ săn sóc đàn chó trước tiên. Chúng được ăn trước khi người ăn, và mỗi người đều chăm nom xem xét các bàn chân của lũ chó xong rồi mới lo sắp xếp chỗ ngủ cho mình. Tuy vậy, sức khoẻ của chúng vẫn suy sụp dần. 

Kể từ đầu mùa đông, chúng đã chạy 1800 dặm quả là thấm thía, cả đối với những con vật dai sức nhất. Bấc chịu đựng được, đồng thời phải trông coi cho lũ bạn nghề của nó tiếp tục làm việc tốt và duy trì kỷ luật, mặc dù bản thân nó tiếp tục làm việc tốt. Bili đêm nào cũng kêu la rên rỉ trong giấc ngủ và trở nên cáu bẳn hơn bao giờ hết. Lão Xônlếch thì không kẻ nào dám đến gần, cả bên mắt mù và bên mắt không mù của lão. 


Nhưng Đêvơ là kẻ đau đớn nhiều nhất. Có cái gì đó không ổn định trong mình gã. Gã trở nên ủ ê hơn và dễ bẳn tính hơn. Lúc đứng lại đóng trại nghỉ là gã lập tức đào tổ nằm, và người lái xe phải đưa thức ăn đến tận chỗ nằm cho gã. Mỗi khi đã được tháo ra khỏi đai cương và nằm xuống là gã nằm miết, không đứng dậy nữa, cho đến tận giờ thắng đai cương sáng hôm sau. Thỉnh thoảng trong vòng dây kéo, thì bị giật mạnh vì chiếc xe trượt tuyết dừng đột ngột hoặc vì kéo căng dây để lôi xe đi, gã kêu thét lên đau đớn. 
Người lái xe xem xét gã cẩn thận, nhưng không phát hiện ra được cái gì cả. Tất cả các chàng lái xe đều quan tâm đến tình trạng sức khoẻ của gã. Họ trao đổi về cái đau của gã trong khi họ ngồi ăn, trong khi họ cùng nhau rít tẩu thuốc cuối cùng trước lúc đi ngủ. 
Và một đêm nọ, họ cùng nhau khám bệnh cho gã. 
Họ bê gã từ trong ổ nằm đến bên đống lửa, rồi họ đè, họ nắn, họ chọc vào chỗ này chỗ nọ cho đến khi gã kêu rú lên nhiều lần. Họ biết gã bị đau cái gì đó ở bên trong, nhưng họ không xác định được là cái gì, không tìm thấy được chỗ xương nào bị gãy, cũng không tìm ra được là đau ở đâu. 
Vào lúc đoàn người và chó đến mỏm núi Kexiơ, gã đã quá yếu, đến nỗi gã nhiều lần ngã xuống trong vòng dây kéo. Anh chàng người lai Xcôtlen hô dừng lại và đưa gã ra ngoài đàn chó, buộc con chó kế tiếp là Xônlếch vào chiêc xe trượt. Anh có ý cho Đêvơ được nghỉ ngơi, để cho gã chạy không ở đằng sau xe.
Nhưng, dù ốm đến như vậy, Đêvơ rất phật ý vì bị đưa ra ngoài, gã càu nhàu và gầm gừ khi người ta tháo các dây kéo ra khỏi mình gã, và rên rỉ đến não cả lòng khi gã nhìn thấy Xônlếch thay thế vào vị trí mà gã đã giữ và phục vụ từ bao lâu nay. Bởi vì lao động trên vệt đường mòn chính là niềm tự hào của gã, và dù ốm đến gần chết gã vẫn không thể nào chịu được khi thấy mộ con chó khác gánh mất phần việc của gã. 
Khi chiếc xe trượt tuyết bắt đầu chuyển động, gã loạng choạng thì thụp trong bãi tuyết mềm dọc bên đường, dùng răng công kích Xônlếch, đâm bổ vào Xônlếch và cố gắng để hất Xônlếch sang phía tuyết mềm bên kia đường, ra sức tìm cách nhảy vào trong vòng dây kéo và len vào giữa Xônlếch và chiếc xe trượt và suốt trong quá trình đó gã rên rỉ, kêu ăng ẳng, rú lên những tiếng sầu não và đau đớn. 
Đêvơ cự tuyệt không chịu chạy thanh thản trên đường mòn phía sau xe, là nơi gã có thể chạy dễ dàng, mà cứ tiếp tục loạng choạng lặn lội trong đám tuyết mềm dọc theo đường là nơi khó đi nhất, cho đến khi gã kiệt sức ngã xuống. Gã nằm bẹp nơi gã vừa ngã gục, gào lên não nùng trong khi dãy dài các xe trượt khuấy tung bụi tuyết nối tiếp lướt qua.
Thu hết sức tàn, gã cố gắng đứng dậy lảo đảo bước theo sau, cho đến khi đoàn xe dừng lại một lần nữa. Nhân lúc này, gã loạng choạng cố tiến lên vượt qua những chiếc xe trượt cho đến khi tới được chiếc xe của mình, và dừng lại bên cạnh Xônlếch. 

Người lái xe nán lại một lúc để đến cạnh người đi sau châm nhờ tẩu thuốc. Đoạn anh quay lại và thúc đàn chó bước đi. Nhưng khi cất bước để ngoặt ra giữa đường thì kỳ lạ chưa, chúng đi nhẹ tênh không phải ráng sức gì cả. Chúng băn khoăn, quay đầu lại nhìn rồi đứng sững kinh ngạc. Người lái xe đứng sửng sốt. Chiếc xe trượt vẫn nguyên tại chỗ, chưa dịch đi tí nào. Anh gọi các bạn anh cùng chứng kiến cảnh tượng vừa xảy ra. Đêvơ đã cắn đứt cả 2 sợi dây kéo của Xônlếch từ bao giờ và đang đứng ngay trước chiếc xe trượt tuyết ở đúng vị trí của gã trước kia.
Qua đôi mắt của Đêvơ, người ta thấy gã đang van nài xin được tiếp tục ở lại vị trí ấy. 

Người lái xe thật là bối rối. Các bạn anh sôi nổi bàn tán. Họ nói rằng một con chó có thể đau lòng đến như thế nào khi bị người ta từ chối không giao cho nó công việc mà người ta biết là làm thì nó chết mất. Họ kể lại những chuyện mà họ đã biết về những con chó quá già không thể lao động nặng được nữa hoặc bị thương, khi bị tháo ra khỏi các dây thắng thì buồn rầu mà chết. Họ cũng bàn rằng, vì Đêvơ thế nào rồi cũng chết, âu là cứ cho gã được chết trong vòng đai cương, cho gã vui lòng thì cũng là làm ơn cho gã. Do đó, họ lại thắng đai cương vào cho gã. 
Và thế là gã lại đầy vẻ tự hào gò lưng kéo như xưa, mặc dù nhiều lúc gã đã không nén được những tiếng kêu rú lên vì cơn đau bên trong cắn xé gã. Đôi khi gã ngã xuống, bị kéo lả đi trong vòng dây thắng. Rồi có lần, chiếc xe trượt đè lên gã, làm bị thương chân sau của gã, khiến sau đó gã phải chạy khập khiễng, nhưng gã vẫn ráng sức chịu đựng, mãi cho đến khi dừng lại đóng trại nghỉ đêm. 
Sang hôm sau, gã đã quá yếu xem chừng khó mà đi được. Đến giờ thắng đai cương, gã cố lết đến chỗ người lái xe của mình. Bằng những cố gắng vất vả, gã ráng sức đứng lên, lảo đảo, rồi lại ngã vật xuống. Nhưng rồi gã lại vặn mình, chậm chạp trườn lên, bò về phía những bạn nghề của gã đang được thắng cương. Gã duỗi hai chân trước ra và bằng thứ động tác giật mạnh, kéo cả thân mình lên, rồi lần nữa lại duỗi hai chân trước ra và lại co mình lên, nhích được thêm vài inch nữa. Nhưng sức gã kiệt dần. 
Và phút cuối cùng các bạn nghề của gã còn nhìn thấy gã là lúc gã đang nằm thở hổn hển trên mặt tuyết, nhìn theo chúng bằng đôi mắt khát khao. Sau đó, chúng vẫn còn nghe được tiếng hú thê thảm của gã vọng theo mãi cho đến khi chúng đi khuất hẳn đằng sau rặng cây bên dòng sông. 
Đến đây, đoàn xe dừng lại. Anh chàng người lai Xcôtlen chậm rãi quay trở về nơi họ vừa ra đi. Tất cả im bặt không ai chuyện trò nữa.
Một tiếng súng lục vang lên. 
Anh người lai hối hả quay lại. Nhưng chiếc roi vút trong không khí, những chiếc nhạc ở cổ chó rung lên leng keng vui vẻ, những chiếc xe trượt lại khuấy tung bụi tuyết lướt trên đường. 
Nhưng Bấc hiểu, cũng như mọi con chó khác đều hiểu, cái gì đã xảy ra phía đằng sau rặng cây bên dòng sông.

Hết chương 4
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close