Thông tin truyện
Tác giả : Jarson DarkQuốc gia : Đức Thể loại : Phiêu lưu - Kinh dị Số lượng : 20 chương Người dịch : đang cập nhật
Đọc truyện
Serve 1
Cái chết đi cùng với họ. nhưng chỉ một người duy nhất trong thủy thủ đoàn biết điều đó. Cũng chính vì nó mà hắn ta đã bước chân lên con tàu này, rình mò để chờ cơ hội. Gã đâu thèm quan tâm đến vàng bạc, những bức tranh quý hiếm, đồ nữ trang, hay những thứ lụa tuyệt đẹp ngày nào đã trang điểm cho hằng sa số những người đàn bà Hồi giáo. Gã chỉ muốn với tay tới một vật duy nhất. Người đàn ông đó tự xưng là Malraux, nhưng đó không phải là tên thật của gã. Tên thật này không một ai trên tàu được biết, và gã cũng sẽ không bao giờ nói cho nghe. Gã phải giữ mọi việc trong vòng bí mật tuyệt đối. Mà khi mọi việc đã qua đi, người ta sẽ lại càng không dám thốt lên lời nào. Hiện gã đàn ông vẫn còn nằm trên võng, trong căn phòng bên dưới boong tàu. Xung quanh gã là một bầu không khí ngột ngạt, nồng nặc, đặc quánh khiến cho đến cả những con ruồi béo phị cũng ngừng bay, tìm chỗ nghỉ. Chẳng ai biết chúng xuất phát từ đâu, nhưng loài côn trùng quỷ quyệt đã tìm được đường đi riêng và bây giờ đang hiện diện nơi đây như muôn vàn đốm nhỏ óng ánh. Malraux nghĩ tới việc, con tàu này, tới một lúc nào đó sẽ sang với Tân Thế Giới, để mang toàn bộ của cải châu báu của dòng đạo Templer đưa về nơi an toàn. Khác với tại châu Âu, dòng đạo Templer không bị những dòng đạo khác ở Mỹ truy đuổi và tàn sát. Ở lục địa già, cứ mỗi khi ló mặt ra thì các thành viên của nhóm Templer đều biết, điều duy nhất đang chờ họ là tra tấn, nhà giam và cái chết. Gã đâu có muốn đi cùng con tàu này tới tận Tân Thế Giới. Gã đã lên thuyền tại Genua và họ đã vui vẻ đón nhận gã, bởi đa số thủy thủ đều e ngại cảnh cô đơn trên con đường dài vượt đại dương. Những con đường phủ đầy những cơn bão khủng khiếp, cái khát, cái nóng thiêu đốt dưới mặt trời đổ lửa, bệnh tật và cái chết. Chỉ những người đàn ông đặc biệt dũng cảm hoặc những người đàn ông chẳng còn gì để mất mới tham gia những chuyến đi nguy hiểm như thế này. Bản thân Malraux không biết mình thuộc nhóm người nào. Vì thế mà gã đàn ông đã tự tưởng tượng ra một nhóm người thứ ba và xếp hắn vào đó. Đoạn đường từ Genua tới trạm giữa Marseile kéo dài vài ngày, bởi đầu tiên họ phải đi ngược chiều gió thổi từ hướng Tây hoặc Tây nam. Trong khoảng thời gian này, nhất định gã phải đạt được mục đích của mình. Họ đã đi dọc bờ biển này đến hai ngày rồi, nhưng không bao giờ vào gần bờ tới mức người trên bờ có thể nhìn thấy. Lang thang trong vùng nước này chẳng phải là không nguy hiểm, đặc biệt đối với một con tàu có in hình cây thập tự Templer trên cánh buồm. Lẽ ra phải quét vôi lên trên cây thập tự đó, nhưng lòng tự hào của những người trên tàu không cho phép. Thay vào đó, họ dự định vào vịnh Marseile trong đêm. Một số người trong họ sẽ lên bờ ngay trong đêm đó, để né tránh bàn tay truy lùng của Giáo hoàng, các vị giám mục Thiên Chúa giáo cũng như của cảnh sát ngoài đời. Tất cả những nhóm người đó đều rất muốn chiếm kho báu của dòng đạo Templer, bởi tất cả đều tham lam và đều đang sắp phá sản. Chuyện đó chẳng khiến gã đàn ông mảy may quan tâm tới. Gã chỉ biết đến một mục tiêu duy nhất. Gã cũng sẽ biến mất tại Marseile, sẽ trà trộn vào đám người trên bến cảng, để rồi chìm xuống không để lại một vết tích, như một con chuột lẫn vào trong hang sâu tăm tối. Mặt biển tương đối yên lặng. Gã vừa thực hiện xong ca gác của mình. Ca gác tới sẽ bắt đầu khi màn đêm buông xuống, nhưng sẽ có lượng người canh chừng gấp đôi. Thế nên, dù có màn bao bọc của bóng đêm nhưng việc đi tìm vật thể mà gã mong muốn vào thời điểm đó sẽ nguy hiểm hơn. Gã quyết định thực hiện kế hoạch dưới ánh sáng ban ngày. Rất nhiều thủy thủ trên tàu không biết những gì đang được chứa trong những hòm rương trông rất đỗi bình thường đó. Người ta nói với họ rằng đó là thực phẩm và họ tin ngay lập tức. Nhưng Malraux thì không. Tỉnh như sáo, gã nằm thức trên võng, trong khi những thủy thủ khác đều ngủ say. Gã nghe tiếng họ ngáy và cảm thấy ghê tởm. Đáng tiếc, gã phải chờ. Gã biết có một khoảng thời gian mà mọi người trên tàu, kể cả những người lính đang canh, cũng sẽ giảm tập trung và ngủ nhiều hơn là gác. Con tàu khẽ chòng chành. Những chuyển động truyền vào võng. Tiếng gỗ cọt kẹt, con tàu đang rên lên, cứ như thể nó đang khổ sở khủng khiếp vì chuyến đi này. Nếu cơn bão nổi lên thì không biết nó còn rên siết tới mức nào nữa? Malraux nhìn trân trân lên trần phòng, làm như thể trên đó có treo một tấm gương cho hắn soi. Quả thật, hắn đang nghĩ tới ngoại hình của mình. Những ai gặp hắn thường tỏ vẻ coi thường khi thấy hắn quá nhỏ bé. Họ đâu có để ý đến cấu tạo cơ thể hắn. Gã có rất nhiều cơ bắp, rất khỏe mạnh và trong một vài tháng trời sống tại xứ Osamanen, gã đã học được nghệ thuật đấu vật. Một khi đã tóm được ai vào trong vòng tay, hắn có thể giữ nguyên người này ở tư thế đó thật lâu cho tới khi anh ta chết vì ngộp thở. Hắn đã thử nghiệm điều đó rất nhiều lần, rồi bình tĩnh bỏ đi, để lại những thân hình mất hết sức sống. Đó là một thời gian tràn đầy bạo lực, chỉ có những kẻ nhanh hơn và mạnh hơn mới sống sót. Những người khác vẫn đang ngủ. Họ ú ớ, họ ngáy, một số người nói lảm nhảm trong mơ. Những người khác lại rên rỉ, một số vật vã và một số làm tất cả những điều đó. Cái mùi tỏa ra từ người họ thật ghê tởm. Nó bốc lên mùi mồ hôi, mùi đàn ông, mùi ghét bẩn. Malraux cũng biết, trên con tàu này, có quá đủ mọi loại côn trùng để truyền bệnh từ người này sang người khác. Hắn chờ thêm một vài phút nữa, rồi gạt cái võng sang bên. Việc đứng dậy thật ra không khó, nhưng những người thủy thủ nằm quá sát nhau, nên nếu không chú ý, hắm sẽ đạp phải họ khi nhảy từ trên võng xuống. Hắn cẩn thận từng bước một. Linh cảm cho hắn biết, bây giờ là lúc hắn có thể ra tay. Không chờ đợi nữa, bởi đột ngột hắn có cảm giác như con tàu này là con tàu bị nguyền rủa. Nếu hắn không lầm, thì hắn thậm chí vừa thoáng nhìn thấy một con chuột béo phì, cái thứ rác rưởi báo trước thảm họa. Những kẻ thù đã biết người thuộc dòng đạo Templer muốn bỏ trốn và đã tụ tập những con tàu của mình lại. Cũng đã không ít người bỏ thân nơi đáy đại dương. Malraux chạm chân được xuống đất. Đầu tiên, hắn nhướng đầu ngón chân cái, rồi hắn đặt cả bàn chân. Hắn đi một đôi giầy rất nhẹ bằng da và vải. Hắn có thể chuyển động mà không gây ra một âm thanh nào. Tất cả những món đồ lặt vặt quanh đây chẳng bõ cho hắn mang theo. Đằng nào, hắn cũng chỉ lôi chúng lên thuyền cho mục đích ngụy trang. Toàn đồ chẳng mấy giá trị. Thoáng nhẩm lại, gã đàn ông tin chắc hắn hành động đúng và thời điểm này là lúc ra tay thực hiện kế hoạch. Chỉ chờ thêm vài tiếng đồng hồ nữa thôi, có thể mọi việc đã trở thành quá muộn. Căn phòng hẹp, đầy những người ngủ và rất u tối, mặc dù có hai ngọn đèn cháy ở khoảng tường trước mặt. Gã đàn ông bò trên cả tứ chi. Cách ra cửa tốt nhất là chịu khó chui xuống bên dưới những chiếc võng. Chúng treo trên đầu hắn như những tấm lưới nặng nề. Gã đàn ông nghe âm thanh của những người đang ngủ. Nhiều cái võng đã oằn xuống dưới sức nặng của người nằm, đến độ quệt cả vào tóc gã. Con đường dẫn vào phòng chứa đồ được hai người lính canh chừng. Họ có vũ khí, thế nhưng Malraux không sợ. Xử lý hai người này là chuyện dễ dàng. Hắn lại có lợi thế là đã quen biết họ trong mấy ngày qua. Con tàu chòng chành, chầm chậm lướt theo những đợt sóng dài. Gã đàn ông có mái tóc đen và bộ ria lởm chởm lẹ làng chuyển động theo nhịp sóng. Không khí thật ngột ngạt. Cả gương mặt và toàn bộ cơ thể hắn bây giờ phủ một lớp mồ hôi rất dày. Gã cũng bốc mùi chẳng khác gì những người đàn ông đang ngủ kia. Gã bò về phía cửa. Tới bên ngưỡng cửa, gã đàn ông đứng lên, chạy đến bên một cửa sổ nhỏ, ném một cái nhìn về hướng Bắc. Hướng đó là bờ biển nước Pháp. Gã chưa nhìn thấy nó, nhưng gã có thể linh cảm ra nó, bởi có những đường viền mờ mờ đang hiện lên dưới ánh mặt trời gay gắt. Gã sẽ dễ dàng vượt qua được khoảng cách này, nó hoàn toàn chẳng thành vấn đề đối với người bơi giỏi như gã. Ngoài ra, hướng sóng cũng đang đổ về biển và đang có một cơn gió nhè nhẹ thổi tới từ hướng Nam. Những kẻ khéo léo như gã có thể để cho sóng mang mình lên, và thậm chí còn nghỉ ngơi trong khi bơi. Mọi việc đang diễn ra trôi chảy. Khi cẩn thận mở cánh cửa ra, hắn chẳng nhìn thấy người lính gác nào. Cửa gỗ có kêu lên cọt kẹt, nhưng chắc đám đàn ông đã quá mệt trong một ca gác quá dài. Hắn lẻn ra ngoài. Ngay lập tức, hắn cảm nhận được một luồng gió thổi thẳng vào mặt. Nó thoáng và lạnh hơn, gây cảm giác dễ chịu, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để xua khô lớp mồ hôi dày trên mặt hắn. Từ bên trên, ánh nắng len lỏi qua những kẻ hở giữa các tấm ván, rọi vào không gian trong bụng chiếc tàu buồm và vẽ lên trên mặt đất bẩn thỉu những hình ngoằn ngoèo sáng màu, nơi có vô vàn hạt bụi nhỏ đang nhảy múa. Gã đàn ông biết gã phải đi về đâu. Những ngăn kho lớn nằm ở giữa và đuôi con tàu. Nơi gã muốn tới là một phòng nhỏ nằm ở dãy kho đầu. Con tàu đã được tạo dựng rất tiện lợi. Ở giữa có một lối đi, chia phía dưới boong tàu ra làm hai nửa. Mỗi bên đếu là những dãy nhà kho chất đầy hàng. Trước khi ra tới được lối đi ở giữa đó, gã đàn ông phải mở thêm một cánh cửa khác. Cánh cửa này gắn vào một vách ngăn ngang và đằng sau cánh cửa có hai người lính gác đang ngồi. Gã biết rõ như vậy. Gã đã chuẩn bị thông tin từ trước. Tình hình hôm nay chắc chắn cũng sẽ như thế. Malraux cất bước đi. Lẹ làng, khéo léo như một tên ăn trộm. Hắn không mang vũ khí, nhưng đôi bàn tay với những ngón tay ngắn khỏe không ngừng chuyển động. Không được để cho chúng trở thành đờ đẫn, dại khờ! Những người dân ở xứ Osmanen đã dạy cho hắn một số mánh khóe, có thể dùng tay trần bóp chết người. Bầu không khí u ám trong bụng con tàu như một làn khói cô đặc. Một bầu không khí không bao giờ thật sự yên lặng. Mặc dù hắn không nghe thấy tiếng bước chân người, nhưng tiếng sóng vỗ không ngừng vào vách gỗ tạo nên một nền âm thanh luôn hiện hữu. Cả những ván gỗ thật ra cũng luôn phát âm thanh và chuyển động. Chúng rên rỉ như những tù nhân. Đứng ở đây, gã không nghe thấy tiếng reo ù ù của cánh buồm, tiếng thổi phần phật của vải, vốn được một số người coi là bí hiểm. Chỉ thỉnh thoảng, gã mới nhận ra âm thanh trầm đục của những bước chân chạy trên boong. Thỉnh thoảng, lại nghe thấy tiếng ra lệnh vẳng nhẹ từ bên trên xuống, hoặc một tiếng thét, một câu chửi rủa. Thế thôi. Có cái gì vút qua mặt hắn như một bàn tay hết sức dịu dàng. Đó là đám lưới nhện đang phủ lòng thòng từ trên trần phòng xuống. Nhện ở đây không lo chết đói. Thỉnh thoảng lại có những con ruồi béo phì sa vào lưới. Đến bên buồng gác, Malraux dừng chân. Hắn biết hắn chỉ có một mình, mặc dù vậy hắn vẫn cẩn thận nhìn quanh. Gã đàn ông không phát hiện ra ai. Gã cũng không nghe thấy âm thanh nào khả nghi. Trong một góc phòng có những cây bạch lạp đang cháy. Chúng chảy ra, trông như những khúc xương da trắng đã bị vứt đi. Đằng sau vách ngăn ngang là hai người lính gác. Đó không phải là thủy thủ, mà là những người lính được thuê về đây. Họ không quan tâm tới chuyện các giáo phái và họ chỉ chấp nhận tiền lương bằng vàng. Trong phòng họ ngồi bây giờ không tối hẳn, bởi ánh sáng đang lọt vào qua những khe hở nhỏ trên những vách gỗ. Mặc dù vậy, căn phòng vẫn gây ấn tượng rất u ám, như đang có vô vàn những bóng đêm nhảy múa trên nền phòng. Malraux gõ cửa. Gã không gõ chậm hay gõ khẽ. Gã đập thật mạnh cả nắm đấm vào cánh cửa gỗ, đòi hỏi, yêu cầu, để hai người lính trong kia biết có người đang muốn vào trong. Đầu tiên, không có phản ứng. Thế rồi hắn nghe thấy một tiếng động. Thanh chắn bằng gỗ ở phía trong được kéo sang bên. Cánh cửa mở. Nó vừa mở, vừa kêu lên một tiếng kêu tởm lợm khiến Malraux nổi da gà. Quầng sáng của một ngọn đèn dầu chiếu vào hắn. Người lính gác đang giơ cao cây đèn, giơ thẳng lên trên đầu khiến những bóng đèn phủ lên mặt anh ta. Malraux không nhìn thấy mặt người lính gác bởi nó đã chìm vào trong cái hỗn hợp giữa bóng đen và ánh đèn. Nhưng hắn nghe được giọng anh ta. - Anh muốn gì? - Tôi phải nói chuyện với các anh. - Thế thì nói đi. - Không phải ở đây. Đừng để cho ai nghe thấy tiếng chúng ta. Chúng ta… ta phải nói chuyện riêng. - Tại sao? - Người lái tàu cử tôi xuống. Anh ấy… anh ấy có một thông điệp gửi riêng cho hai anh. Mọi việc đã được thống nhất với thuyền trưởng. Vàng, rất nhiều vàng. Kể cả những đồ nữ trang quý giá. Người đàn ông chần chừ. Malraux nghe thấy tiếng anh thở. Cả hai khái niệm “vàng và đồ nữ trang” luôn dễ dàng khiến cho những tên lính đánh thuê dỏng tai lên. Họ không biết những cái hòm kia đang chứa những gì. Họ chỉ nhận nhiệm vụ canh giữ chúng, tất cả những chuyện khác họ không quan tâm tới. - Vào đi! Người lính gác thứ hai lên tiếng. Anh ta ngồi bên một chiếc ghế thấp, ở phía bên kia quầng sáng nên Malraux không nhìn ra anh ta. - Có chuyện gì? Anh ta hỏi. - Anh này mang thông tin lại. - Của ai? - Của người lái thuyền... Malraux nói nhanh... Chuyện này dính dáng đến rất nhiều vàng, có lẽ nên cân nhắc. Giờ thì người lính gác thứ hai cũng đứng dậy. Nỗi tham lam lóe sáng trên con mắt. Cả hai người đã bỏ mũ xuống, tấm khiên che ngực cũng vậy. Không khí trong lòng thuyền quá nóng, họ đã cởi chúng ra cho thoải mái. - Nói cho tôi nghe đi. Tên lính có vẻ háo hức. Malraux vẫn còn chờ đợi. Họ có hai người. Gã phải tìm cách phân tán tư tưởng họ. Mà họ lại đang mang vũ khí. Những lưỡi giáo của họ ánh lên trong ánh sáng của lưỡi lửa bập bùng từ đĩa dầu. Gã thè lưỡi liếm môi, xin một ngụm nước. - Chúng tôi không có. Một tên nói. - Có chứ, tôi biết là... - Cho nó đi! Người đàn ông đã mở cửa ban nãy vụt nói. - Tùy anh. Người đàn ông thứ hai bước vào phần trong của căn phòng tăm tối. Chỉ còn một người ở lại. Malraux mỉm cười. Người đàn ông đó đứng bên cạnh gã, mũi giáo đang chỉa xuống đất. Kẻ lẻn vào chờ thời điểm thích hợp. Khi nghe thấy tiếng nước chảy, hắn biết là bây giờ nước từ trong một thùng rất lớn đang được chia sang thùng nhỏ. Gã ra đòn nhanh hơn chớp. Người lính gác hoàn toàn bất ngờ khi một khuỷu tay cứng như đá thúc mạnh vào giữa thân thể anh. Anh ta gục xuống, cảm giác khó chịu trào lên, khiến anh không kịp kêu ngay lập tức. Anh ngã người về phía trước. Malraux chỉ chờ có vậy. Gã đấm hai lần vào gáy người đàn ông. Người lính gác xỉu xuống. Malraux giành lấy cái giáo trong tay anh. Gã đàn ông lại mỉm cười lạnh lùng đi về phía trước, đến gần bóng tối. Tiếng bước chân vang lên. Người lính gác thứ hai quay trở lại. Chắc chắn anh ta đang cầm một bình đầy nước. Anh ta không mang vũ khí, và không biết là Malraux đang chờ cho tới lúc nhìn thấy hình dáng anh hiện ra trong quầng tối. Gã lấy đà, và phóng cây giáo nặng. Người lính gác hoàn toàn bị bất ngờ. Malraux không nhìn được rõ chi tiết. Gã chỉ nhìn thấy dáng người đó còn giật sang bên trái, rồi sang bên phải một thoáng trong bóng tối, cái bình đựng nước đập xuống dưới đất. Thế rồi cả thân hình người đàn ông cũng đập xuống. Kêu lên một tiếng trầm đục, thân người đó giáng xuống nền phòng rồi không động đậy nữa. Malraux hài lòng. Gã đã chuẩn bị rất tốt và bây giờ gã biết rất chính xác, gã có thể tìm phòng đựng đồ vật ở chỗ nào. Những cánh cửa thậm chí không được đảm bảo bằng khóa hay dây xích. Hắn chỉ cần dùng một thân gỗ nặng và đẩy chúng sang bên. Sau khi đã làm việc đó xong, gã quay trở lại, lấy cây đèn dầu. Gã không quan tâm đến xác chết, mà cũng chẳng thèm ném một cái nhìn xuống thân người đang ngất. Người đàn ông không động đậy. Malraux đoán chắc, bây giờ gã sẽ không bị ai cản trở. Gã đang rất hồi hộp. Đôi môi gã run rẩy, hai đầu gối như đang mềm ra khi bước vào căn phòng chứa châu báu. Đặt cây đèn sang một bên, gã hít lấy một hơi thật sâu và đưa mắt nhìn quanh. Nó có ở đây không? Có! Cái hòm đó ở ngay bên cạnh hắn. Gã đàn ông thì thào: - Giờ thì ta sẽ ra tay.Hết chương 1
Chọn chương để xem
Serve 1
Cái chết đi cùng với họ.
nhưng chỉ một người duy nhất trong thủy thủ đoàn biết điều đó. Cũng chính vì nó mà hắn ta đã bước chân lên con tàu này, rình mò để chờ cơ hội.
Gã đâu thèm quan tâm đến vàng bạc, những bức tranh quý hiếm, đồ nữ trang, hay những thứ lụa tuyệt đẹp ngày nào đã trang điểm cho hằng sa số những người đàn bà Hồi giáo.
Gã chỉ muốn với tay tới một vật duy nhất.
Người đàn ông đó tự xưng là Malraux, nhưng đó không phải là tên thật của gã. Tên thật này không một ai trên tàu được biết, và gã cũng sẽ không bao giờ nói cho nghe. Gã phải giữ mọi việc trong vòng bí mật tuyệt đối. Mà khi mọi việc đã qua đi, người ta sẽ lại càng không dám thốt lên lời nào.
Hiện gã đàn ông vẫn còn nằm trên võng, trong căn phòng bên dưới boong tàu. Xung quanh gã là một bầu không khí ngột ngạt, nồng nặc, đặc quánh khiến cho đến cả những con ruồi béo phị cũng ngừng bay, tìm chỗ nghỉ. Chẳng ai biết chúng xuất phát từ đâu, nhưng loài côn trùng quỷ quyệt đã tìm được đường đi riêng và bây giờ đang hiện diện nơi đây như muôn vàn đốm nhỏ óng ánh.
Malraux nghĩ tới việc, con tàu này, tới một lúc nào đó sẽ sang với Tân Thế Giới, để mang toàn bộ của cải châu báu của dòng đạo Templer đưa về nơi an toàn. Khác với tại châu Âu, dòng đạo Templer không bị những dòng đạo khác ở Mỹ truy đuổi và tàn sát. Ở lục địa già, cứ mỗi khi ló mặt ra thì các thành viên của nhóm Templer đều biết, điều duy nhất đang chờ họ là tra tấn, nhà giam và cái chết. Gã đâu có muốn đi cùng con tàu này tới tận Tân Thế Giới. Gã đã lên thuyền tại Genua và họ đã vui vẻ đón nhận gã, bởi đa số thủy thủ đều e ngại cảnh cô đơn trên con đường dài vượt đại dương. Những con đường phủ đầy những cơn bão khủng khiếp, cái khát, cái nóng thiêu đốt dưới mặt trời đổ lửa, bệnh tật và cái chết. Chỉ những người đàn ông đặc biệt dũng cảm hoặc những người đàn ông chẳng còn gì để mất mới tham gia những chuyến đi nguy hiểm như thế này. Bản thân Malraux không biết mình thuộc nhóm người nào. Vì thế mà gã đàn ông đã tự tưởng tượng ra một nhóm người thứ ba và xếp hắn vào đó.
Đoạn đường từ Genua tới trạm giữa Marseile kéo dài vài ngày, bởi đầu tiên họ phải đi ngược chiều gió thổi từ hướng Tây hoặc Tây nam. Trong khoảng thời gian này, nhất định gã phải đạt được mục đích của mình. Họ đã đi dọc bờ biển này đến hai ngày rồi, nhưng không bao giờ vào gần bờ tới mức người trên bờ có thể nhìn thấy. Lang thang trong vùng nước này chẳng phải là không nguy hiểm, đặc biệt đối với một con tàu có in hình cây thập tự Templer trên cánh buồm. Lẽ ra phải quét vôi lên trên cây thập tự đó, nhưng lòng tự hào của những người trên tàu không cho phép. Thay vào đó, họ dự định vào vịnh Marseile trong đêm. Một số người trong họ sẽ lên bờ ngay trong đêm đó, để né tránh bàn tay truy lùng của Giáo hoàng, các vị giám mục Thiên Chúa giáo cũng như của cảnh sát ngoài đời. Tất cả những nhóm người đó đều rất muốn chiếm kho báu của dòng đạo Templer, bởi tất cả đều tham lam và đều đang sắp phá sản. Chuyện đó chẳng khiến gã đàn ông mảy may quan tâm tới. Gã chỉ biết đến một mục tiêu duy nhất. Gã cũng sẽ biến mất tại Marseile, sẽ trà trộn vào đám người trên bến cảng, để rồi chìm xuống không để lại một vết tích, như một con chuột lẫn vào trong hang sâu tăm tối.
Mặt biển tương đối yên lặng. Gã vừa thực hiện xong ca gác của mình. Ca gác tới sẽ bắt đầu khi màn đêm buông xuống, nhưng sẽ có lượng người canh chừng gấp đôi. Thế nên, dù có màn bao bọc của bóng đêm nhưng việc đi tìm vật thể mà gã mong muốn vào thời điểm đó sẽ nguy hiểm hơn. Gã quyết định thực hiện kế hoạch dưới ánh sáng ban ngày.
Rất nhiều thủy thủ trên tàu không biết những gì đang được chứa trong những hòm rương trông rất đỗi bình thường đó. Người ta nói với họ rằng đó là thực phẩm và họ tin ngay lập tức.
Nhưng Malraux thì không.
Tỉnh như sáo, gã nằm thức trên võng, trong khi những thủy thủ khác đều ngủ say. Gã nghe tiếng họ ngáy và cảm thấy ghê tởm. Đáng tiếc, gã phải chờ. Gã biết có một khoảng thời gian mà mọi người trên tàu, kể cả những người lính đang canh, cũng sẽ giảm tập trung và ngủ nhiều hơn là gác.
Con tàu khẽ chòng chành. Những chuyển động truyền vào võng. Tiếng gỗ cọt kẹt, con tàu đang rên lên, cứ như thể nó đang khổ sở khủng khiếp vì chuyến đi này. Nếu cơn bão nổi lên thì không biết nó còn rên siết tới mức nào nữa?
Malraux nhìn trân trân lên trần phòng, làm như thể trên đó có treo một tấm gương cho hắn soi. Quả thật, hắn đang nghĩ tới ngoại hình của mình. Những ai gặp hắn thường tỏ vẻ coi thường khi thấy hắn quá nhỏ bé. Họ đâu có để ý đến cấu tạo cơ thể hắn. Gã có rất nhiều cơ bắp, rất khỏe mạnh và trong một vài tháng trời sống tại xứ Osamanen, gã đã học được nghệ thuật đấu vật. Một khi đã tóm được ai vào trong vòng tay, hắn có thể giữ nguyên người này ở tư thế đó thật lâu cho tới khi anh ta chết vì ngộp thở. Hắn đã thử nghiệm điều đó rất nhiều lần, rồi bình tĩnh bỏ đi, để lại những thân hình mất hết sức sống. Đó là một thời gian tràn đầy bạo lực, chỉ có những kẻ nhanh hơn và mạnh hơn mới sống sót.
Những người khác vẫn đang ngủ. Họ ú ớ, họ ngáy, một số người nói lảm nhảm trong mơ. Những người khác lại rên rỉ, một số vật vã và một số làm tất cả những điều đó. Cái mùi tỏa ra từ người họ thật ghê tởm. Nó bốc lên mùi mồ hôi, mùi đàn ông, mùi ghét bẩn. Malraux cũng biết, trên con tàu này, có quá đủ mọi loại côn trùng để truyền bệnh từ người này sang người khác.
Hắn chờ thêm một vài phút nữa, rồi gạt cái võng sang bên. Việc đứng dậy thật ra không khó, nhưng những người thủy thủ nằm quá sát nhau, nên nếu không chú ý, hắm sẽ đạp phải họ khi nhảy từ trên võng xuống.
Hắn cẩn thận từng bước một.
Linh cảm cho hắn biết, bây giờ là lúc hắn có thể ra tay. Không chờ đợi nữa, bởi đột ngột hắn có cảm giác như con tàu này là con tàu bị nguyền rủa. Nếu hắn không lầm, thì hắn thậm chí vừa thoáng nhìn thấy một con chuột béo phì, cái thứ rác rưởi báo trước thảm họa. Những kẻ thù đã biết người thuộc dòng đạo Templer muốn bỏ trốn và đã tụ tập những con tàu của mình lại. Cũng đã không ít người bỏ thân nơi đáy đại dương.
Malraux chạm chân được xuống đất. Đầu tiên, hắn nhướng đầu ngón chân cái, rồi hắn đặt cả bàn chân. Hắn đi một đôi giầy rất nhẹ bằng da và vải. Hắn có thể chuyển động mà không gây ra một âm thanh nào. Tất cả những món đồ lặt vặt quanh đây chẳng bõ cho hắn mang theo. Đằng nào, hắn cũng chỉ lôi chúng lên thuyền cho mục đích ngụy trang. Toàn đồ chẳng mấy giá trị. Thoáng nhẩm lại, gã đàn ông tin chắc hắn hành động đúng và thời điểm này là lúc ra tay thực hiện kế hoạch. Chỉ chờ thêm vài tiếng đồng hồ nữa thôi, có thể mọi việc đã trở thành quá muộn.
Căn phòng hẹp, đầy những người ngủ và rất u tối, mặc dù có hai ngọn đèn cháy ở khoảng tường trước mặt. Gã đàn ông bò trên cả tứ chi. Cách ra cửa tốt nhất là chịu khó chui xuống bên dưới những chiếc võng. Chúng treo trên đầu hắn như những tấm lưới nặng nề. Gã đàn ông nghe âm thanh của những người đang ngủ. Nhiều cái võng đã oằn xuống dưới sức nặng của người nằm, đến độ quệt cả vào tóc gã.
Con đường dẫn vào phòng chứa đồ được hai người lính canh chừng. Họ có vũ khí, thế nhưng Malraux không sợ. Xử lý hai người này là chuyện dễ dàng. Hắn lại có lợi thế là đã quen biết họ trong mấy ngày qua.
Con tàu chòng chành, chầm chậm lướt theo những đợt sóng dài. Gã đàn ông có mái tóc đen và bộ ria lởm chởm lẹ làng chuyển động theo nhịp sóng. Không khí thật ngột ngạt. Cả gương mặt và toàn bộ cơ thể hắn bây giờ phủ một lớp mồ hôi rất dày. Gã cũng bốc mùi chẳng khác gì những người đàn ông đang ngủ kia.
Gã bò về phía cửa.
Tới bên ngưỡng cửa, gã đàn ông đứng lên, chạy đến bên một cửa sổ nhỏ, ném một cái nhìn về hướng Bắc. Hướng đó là bờ biển nước Pháp. Gã chưa nhìn thấy nó, nhưng gã có thể linh cảm ra nó, bởi có những đường viền mờ mờ đang hiện lên dưới ánh mặt trời gay gắt. Gã sẽ dễ dàng vượt qua được khoảng cách này, nó hoàn toàn chẳng thành vấn đề đối với người bơi giỏi như gã. Ngoài ra, hướng sóng cũng đang đổ về biển và đang có một cơn gió nhè nhẹ thổi tới từ hướng Nam. Những kẻ khéo léo như gã có thể để cho sóng mang mình lên, và thậm chí còn nghỉ ngơi trong khi bơi.
Mọi việc đang diễn ra trôi chảy.
Khi cẩn thận mở cánh cửa ra, hắn chẳng nhìn thấy người lính gác nào. Cửa gỗ có kêu lên cọt kẹt, nhưng chắc đám đàn ông đã quá mệt trong một ca gác quá dài.
Hắn lẻn ra ngoài.
Ngay lập tức, hắn cảm nhận được một luồng gió thổi thẳng vào mặt. Nó thoáng và lạnh hơn, gây cảm giác dễ chịu, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để xua khô lớp mồ hôi dày trên mặt hắn. Từ bên trên, ánh nắng len lỏi qua những kẻ hở giữa các tấm ván, rọi vào không gian trong bụng chiếc tàu buồm và vẽ lên trên mặt đất bẩn thỉu những hình ngoằn ngoèo sáng màu, nơi có vô vàn hạt bụi nhỏ đang nhảy múa.
Gã đàn ông biết gã phải đi về đâu. Những ngăn kho lớn nằm ở giữa và đuôi con tàu. Nơi gã muốn tới là một phòng nhỏ nằm ở dãy kho đầu. Con tàu đã được tạo dựng rất tiện lợi. Ở giữa có một lối đi, chia phía dưới boong tàu ra làm hai nửa. Mỗi bên đếu là những dãy nhà kho chất đầy hàng. Trước khi ra tới được lối đi ở giữa đó, gã đàn ông phải mở thêm một cánh cửa khác. Cánh cửa này gắn vào một vách ngăn ngang và đằng sau cánh cửa có hai người lính gác đang ngồi. Gã biết rõ như vậy. Gã đã chuẩn bị thông tin từ trước. Tình hình hôm nay chắc chắn cũng sẽ như thế.
Malraux cất bước đi. Lẹ làng, khéo léo như một tên ăn trộm.
Hắn không mang vũ khí, nhưng đôi bàn tay với những ngón tay ngắn khỏe không ngừng chuyển động. Không được để cho chúng trở thành đờ đẫn, dại khờ! Những người dân ở xứ Osmanen đã dạy cho hắn một số mánh khóe, có thể dùng tay trần bóp chết người.
Bầu không khí u ám trong bụng con tàu như một làn khói cô đặc. Một bầu không khí không bao giờ thật sự yên lặng. Mặc dù hắn không nghe thấy tiếng bước chân người, nhưng tiếng sóng vỗ không ngừng vào vách gỗ tạo nên một nền âm thanh luôn hiện hữu. Cả những ván gỗ thật ra cũng luôn phát âm thanh và chuyển động. Chúng rên rỉ như những tù nhân. Đứng ở đây, gã không nghe thấy tiếng reo ù ù của cánh buồm, tiếng thổi phần phật của vải, vốn được một số người coi là bí hiểm. Chỉ thỉnh thoảng, gã mới nhận ra âm thanh trầm đục của những bước chân chạy trên boong. Thỉnh thoảng, lại nghe thấy tiếng ra lệnh vẳng nhẹ từ bên trên xuống, hoặc một tiếng thét, một câu chửi rủa. Thế thôi.
Có cái gì vút qua mặt hắn như một bàn tay hết sức dịu dàng. Đó là đám lưới nhện đang phủ lòng thòng từ trên trần phòng xuống. Nhện ở đây không lo chết đói. Thỉnh thoảng lại có những con ruồi béo phì sa vào lưới.
Đến bên buồng gác, Malraux dừng chân. Hắn biết hắn chỉ có một mình, mặc dù vậy hắn vẫn cẩn thận nhìn quanh. Gã đàn ông không phát hiện ra ai. Gã cũng không nghe thấy âm thanh nào khả nghi. Trong một góc phòng có những cây bạch lạp đang cháy. Chúng chảy ra, trông như những khúc xương da trắng đã bị vứt đi. Đằng sau vách ngăn ngang là hai người lính gác. Đó không phải là thủy thủ, mà là những người lính được thuê về đây. Họ không quan tâm tới chuyện các giáo phái và họ chỉ chấp nhận tiền lương bằng vàng. Trong phòng họ ngồi bây giờ không tối hẳn, bởi ánh sáng đang lọt vào qua những khe hở nhỏ trên những vách gỗ. Mặc dù vậy, căn phòng vẫn gây ấn tượng rất u ám, như đang có vô vàn những bóng đêm nhảy múa trên nền phòng.
Malraux gõ cửa. Gã không gõ chậm hay gõ khẽ. Gã đập thật mạnh cả nắm đấm vào cánh cửa gỗ, đòi hỏi, yêu cầu, để hai người lính trong kia biết có người đang muốn vào trong.
Đầu tiên, không có phản ứng.
Thế rồi hắn nghe thấy một tiếng động.
Thanh chắn bằng gỗ ở phía trong được kéo sang bên. Cánh cửa mở. Nó vừa mở, vừa kêu lên một tiếng kêu tởm lợm khiến Malraux nổi da gà. Quầng sáng của một ngọn đèn dầu chiếu vào hắn. Người lính gác đang giơ cao cây đèn, giơ thẳng lên trên đầu khiến những bóng đèn phủ lên mặt anh ta. Malraux không nhìn thấy mặt người lính gác bởi nó đã chìm vào trong cái hỗn hợp giữa bóng đen và ánh đèn. Nhưng hắn nghe được giọng anh ta.
- Anh muốn gì?
- Tôi phải nói chuyện với các anh.
- Thế thì nói đi.
- Không phải ở đây. Đừng để cho ai nghe thấy tiếng chúng ta. Chúng ta… ta phải nói chuyện riêng.
- Tại sao?
- Người lái tàu cử tôi xuống. Anh ấy… anh ấy có một thông điệp gửi riêng cho hai anh. Mọi việc đã được thống nhất với thuyền trưởng. Vàng, rất nhiều vàng. Kể cả những đồ nữ trang quý giá.
Người đàn ông chần chừ. Malraux nghe thấy tiếng anh thở. Cả hai khái niệm “vàng và đồ nữ trang” luôn dễ dàng khiến cho những tên lính đánh thuê dỏng tai lên. Họ không biết những cái hòm kia đang chứa những gì. Họ chỉ nhận nhiệm vụ canh giữ chúng, tất cả những chuyện khác họ không quan tâm tới.
- Vào đi! Người lính gác thứ hai lên tiếng. Anh ta ngồi bên một chiếc ghế thấp, ở phía bên kia quầng sáng nên Malraux không nhìn ra anh ta.
- Có chuyện gì? Anh ta hỏi.
- Anh này mang thông tin lại.
- Của ai?
- Của người lái thuyền... Malraux nói nhanh... Chuyện này dính dáng đến rất nhiều vàng, có lẽ nên cân nhắc.
Giờ thì người lính gác thứ hai cũng đứng dậy. Nỗi tham lam lóe sáng trên con mắt. Cả hai người đã bỏ mũ xuống, tấm khiên che ngực cũng vậy. Không khí trong lòng thuyền quá nóng, họ đã cởi chúng ra cho thoải mái.
- Nói cho tôi nghe đi. Tên lính có vẻ háo hức.
Malraux vẫn còn chờ đợi. Họ có hai người. Gã phải tìm cách phân tán tư tưởng họ. Mà họ lại đang mang vũ khí. Những lưỡi giáo của họ ánh lên trong ánh sáng của lưỡi lửa bập bùng từ đĩa dầu. Gã thè lưỡi liếm môi, xin một ngụm nước.
- Chúng tôi không có. Một tên nói.
- Có chứ, tôi biết là...
- Cho nó đi! Người đàn ông đã mở cửa ban nãy vụt nói.
- Tùy anh.
Người đàn ông thứ hai bước vào phần trong của căn phòng tăm tối. Chỉ còn một người ở lại.
Malraux mỉm cười.
Người đàn ông đó đứng bên cạnh gã, mũi giáo đang chỉa xuống đất.
Kẻ lẻn vào chờ thời điểm thích hợp. Khi nghe thấy tiếng nước chảy, hắn biết là bây giờ nước từ trong một thùng rất lớn đang được chia sang thùng nhỏ.
Gã ra đòn nhanh hơn chớp.
Người lính gác hoàn toàn bất ngờ khi một khuỷu tay cứng như đá thúc mạnh vào giữa thân thể anh. Anh ta gục xuống, cảm giác khó chịu trào lên, khiến anh không kịp kêu ngay lập tức. Anh ngã người về phía trước. Malraux chỉ chờ có vậy. Gã đấm hai lần vào gáy người đàn ông.
Người lính gác xỉu xuống.
Malraux giành lấy cái giáo trong tay anh. Gã đàn ông lại mỉm cười lạnh lùng đi về phía trước, đến gần bóng tối.
Tiếng bước chân vang lên. Người lính gác thứ hai quay trở lại. Chắc chắn anh ta đang cầm một bình đầy nước. Anh ta không mang vũ khí, và không biết là Malraux đang chờ cho tới lúc nhìn thấy hình dáng anh hiện ra trong quầng tối.
Gã lấy đà, và phóng cây giáo nặng. Người lính gác hoàn toàn bị bất ngờ. Malraux không nhìn được rõ chi tiết. Gã chỉ nhìn thấy dáng người đó còn giật sang bên trái, rồi sang bên phải một thoáng trong bóng tối, cái bình đựng nước đập xuống dưới đất. Thế rồi cả thân hình người đàn ông cũng đập xuống. Kêu lên một tiếng trầm đục, thân người đó giáng xuống nền phòng rồi không động đậy nữa.
Malraux hài lòng. Gã đã chuẩn bị rất tốt và bây giờ gã biết rất chính xác, gã có thể tìm phòng đựng đồ vật ở chỗ nào. Những cánh cửa thậm chí không được đảm bảo bằng khóa hay dây xích. Hắn chỉ cần dùng một thân gỗ nặng và đẩy chúng sang bên.
Sau khi đã làm việc đó xong, gã quay trở lại, lấy cây đèn dầu. Gã không quan tâm đến xác chết, mà cũng chẳng thèm ném một cái nhìn xuống thân người đang ngất. Người đàn ông không động đậy. Malraux đoán chắc, bây giờ gã sẽ không bị ai cản trở. Gã đang rất hồi hộp. Đôi môi gã run rẩy, hai đầu gối như đang mềm ra khi bước vào căn phòng chứa châu báu.
Đặt cây đèn sang một bên, gã hít lấy một hơi thật sâu và đưa mắt nhìn quanh.
Nó có ở đây không?
Có! Cái hòm đó ở ngay bên cạnh hắn.
Gã đàn ông thì thào:
- Giờ thì ta sẽ ra tay.
nhưng chỉ một người duy nhất trong thủy thủ đoàn biết điều đó. Cũng chính vì nó mà hắn ta đã bước chân lên con tàu này, rình mò để chờ cơ hội.
Gã đâu thèm quan tâm đến vàng bạc, những bức tranh quý hiếm, đồ nữ trang, hay những thứ lụa tuyệt đẹp ngày nào đã trang điểm cho hằng sa số những người đàn bà Hồi giáo.
Gã chỉ muốn với tay tới một vật duy nhất.
Người đàn ông đó tự xưng là Malraux, nhưng đó không phải là tên thật của gã. Tên thật này không một ai trên tàu được biết, và gã cũng sẽ không bao giờ nói cho nghe. Gã phải giữ mọi việc trong vòng bí mật tuyệt đối. Mà khi mọi việc đã qua đi, người ta sẽ lại càng không dám thốt lên lời nào.
Hiện gã đàn ông vẫn còn nằm trên võng, trong căn phòng bên dưới boong tàu. Xung quanh gã là một bầu không khí ngột ngạt, nồng nặc, đặc quánh khiến cho đến cả những con ruồi béo phị cũng ngừng bay, tìm chỗ nghỉ. Chẳng ai biết chúng xuất phát từ đâu, nhưng loài côn trùng quỷ quyệt đã tìm được đường đi riêng và bây giờ đang hiện diện nơi đây như muôn vàn đốm nhỏ óng ánh.
Malraux nghĩ tới việc, con tàu này, tới một lúc nào đó sẽ sang với Tân Thế Giới, để mang toàn bộ của cải châu báu của dòng đạo Templer đưa về nơi an toàn. Khác với tại châu Âu, dòng đạo Templer không bị những dòng đạo khác ở Mỹ truy đuổi và tàn sát. Ở lục địa già, cứ mỗi khi ló mặt ra thì các thành viên của nhóm Templer đều biết, điều duy nhất đang chờ họ là tra tấn, nhà giam và cái chết. Gã đâu có muốn đi cùng con tàu này tới tận Tân Thế Giới. Gã đã lên thuyền tại Genua và họ đã vui vẻ đón nhận gã, bởi đa số thủy thủ đều e ngại cảnh cô đơn trên con đường dài vượt đại dương. Những con đường phủ đầy những cơn bão khủng khiếp, cái khát, cái nóng thiêu đốt dưới mặt trời đổ lửa, bệnh tật và cái chết. Chỉ những người đàn ông đặc biệt dũng cảm hoặc những người đàn ông chẳng còn gì để mất mới tham gia những chuyến đi nguy hiểm như thế này. Bản thân Malraux không biết mình thuộc nhóm người nào. Vì thế mà gã đàn ông đã tự tưởng tượng ra một nhóm người thứ ba và xếp hắn vào đó.
Đoạn đường từ Genua tới trạm giữa Marseile kéo dài vài ngày, bởi đầu tiên họ phải đi ngược chiều gió thổi từ hướng Tây hoặc Tây nam. Trong khoảng thời gian này, nhất định gã phải đạt được mục đích của mình. Họ đã đi dọc bờ biển này đến hai ngày rồi, nhưng không bao giờ vào gần bờ tới mức người trên bờ có thể nhìn thấy. Lang thang trong vùng nước này chẳng phải là không nguy hiểm, đặc biệt đối với một con tàu có in hình cây thập tự Templer trên cánh buồm. Lẽ ra phải quét vôi lên trên cây thập tự đó, nhưng lòng tự hào của những người trên tàu không cho phép. Thay vào đó, họ dự định vào vịnh Marseile trong đêm. Một số người trong họ sẽ lên bờ ngay trong đêm đó, để né tránh bàn tay truy lùng của Giáo hoàng, các vị giám mục Thiên Chúa giáo cũng như của cảnh sát ngoài đời. Tất cả những nhóm người đó đều rất muốn chiếm kho báu của dòng đạo Templer, bởi tất cả đều tham lam và đều đang sắp phá sản. Chuyện đó chẳng khiến gã đàn ông mảy may quan tâm tới. Gã chỉ biết đến một mục tiêu duy nhất. Gã cũng sẽ biến mất tại Marseile, sẽ trà trộn vào đám người trên bến cảng, để rồi chìm xuống không để lại một vết tích, như một con chuột lẫn vào trong hang sâu tăm tối.
Mặt biển tương đối yên lặng. Gã vừa thực hiện xong ca gác của mình. Ca gác tới sẽ bắt đầu khi màn đêm buông xuống, nhưng sẽ có lượng người canh chừng gấp đôi. Thế nên, dù có màn bao bọc của bóng đêm nhưng việc đi tìm vật thể mà gã mong muốn vào thời điểm đó sẽ nguy hiểm hơn. Gã quyết định thực hiện kế hoạch dưới ánh sáng ban ngày.
Rất nhiều thủy thủ trên tàu không biết những gì đang được chứa trong những hòm rương trông rất đỗi bình thường đó. Người ta nói với họ rằng đó là thực phẩm và họ tin ngay lập tức.
Nhưng Malraux thì không.
Tỉnh như sáo, gã nằm thức trên võng, trong khi những thủy thủ khác đều ngủ say. Gã nghe tiếng họ ngáy và cảm thấy ghê tởm. Đáng tiếc, gã phải chờ. Gã biết có một khoảng thời gian mà mọi người trên tàu, kể cả những người lính đang canh, cũng sẽ giảm tập trung và ngủ nhiều hơn là gác.
Con tàu khẽ chòng chành. Những chuyển động truyền vào võng. Tiếng gỗ cọt kẹt, con tàu đang rên lên, cứ như thể nó đang khổ sở khủng khiếp vì chuyến đi này. Nếu cơn bão nổi lên thì không biết nó còn rên siết tới mức nào nữa?
Malraux nhìn trân trân lên trần phòng, làm như thể trên đó có treo một tấm gương cho hắn soi. Quả thật, hắn đang nghĩ tới ngoại hình của mình. Những ai gặp hắn thường tỏ vẻ coi thường khi thấy hắn quá nhỏ bé. Họ đâu có để ý đến cấu tạo cơ thể hắn. Gã có rất nhiều cơ bắp, rất khỏe mạnh và trong một vài tháng trời sống tại xứ Osamanen, gã đã học được nghệ thuật đấu vật. Một khi đã tóm được ai vào trong vòng tay, hắn có thể giữ nguyên người này ở tư thế đó thật lâu cho tới khi anh ta chết vì ngộp thở. Hắn đã thử nghiệm điều đó rất nhiều lần, rồi bình tĩnh bỏ đi, để lại những thân hình mất hết sức sống. Đó là một thời gian tràn đầy bạo lực, chỉ có những kẻ nhanh hơn và mạnh hơn mới sống sót.
Những người khác vẫn đang ngủ. Họ ú ớ, họ ngáy, một số người nói lảm nhảm trong mơ. Những người khác lại rên rỉ, một số vật vã và một số làm tất cả những điều đó. Cái mùi tỏa ra từ người họ thật ghê tởm. Nó bốc lên mùi mồ hôi, mùi đàn ông, mùi ghét bẩn. Malraux cũng biết, trên con tàu này, có quá đủ mọi loại côn trùng để truyền bệnh từ người này sang người khác.
Hắn chờ thêm một vài phút nữa, rồi gạt cái võng sang bên. Việc đứng dậy thật ra không khó, nhưng những người thủy thủ nằm quá sát nhau, nên nếu không chú ý, hắm sẽ đạp phải họ khi nhảy từ trên võng xuống.
Hắn cẩn thận từng bước một.
Linh cảm cho hắn biết, bây giờ là lúc hắn có thể ra tay. Không chờ đợi nữa, bởi đột ngột hắn có cảm giác như con tàu này là con tàu bị nguyền rủa. Nếu hắn không lầm, thì hắn thậm chí vừa thoáng nhìn thấy một con chuột béo phì, cái thứ rác rưởi báo trước thảm họa. Những kẻ thù đã biết người thuộc dòng đạo Templer muốn bỏ trốn và đã tụ tập những con tàu của mình lại. Cũng đã không ít người bỏ thân nơi đáy đại dương.
Malraux chạm chân được xuống đất. Đầu tiên, hắn nhướng đầu ngón chân cái, rồi hắn đặt cả bàn chân. Hắn đi một đôi giầy rất nhẹ bằng da và vải. Hắn có thể chuyển động mà không gây ra một âm thanh nào. Tất cả những món đồ lặt vặt quanh đây chẳng bõ cho hắn mang theo. Đằng nào, hắn cũng chỉ lôi chúng lên thuyền cho mục đích ngụy trang. Toàn đồ chẳng mấy giá trị. Thoáng nhẩm lại, gã đàn ông tin chắc hắn hành động đúng và thời điểm này là lúc ra tay thực hiện kế hoạch. Chỉ chờ thêm vài tiếng đồng hồ nữa thôi, có thể mọi việc đã trở thành quá muộn.
Căn phòng hẹp, đầy những người ngủ và rất u tối, mặc dù có hai ngọn đèn cháy ở khoảng tường trước mặt. Gã đàn ông bò trên cả tứ chi. Cách ra cửa tốt nhất là chịu khó chui xuống bên dưới những chiếc võng. Chúng treo trên đầu hắn như những tấm lưới nặng nề. Gã đàn ông nghe âm thanh của những người đang ngủ. Nhiều cái võng đã oằn xuống dưới sức nặng của người nằm, đến độ quệt cả vào tóc gã.
Con đường dẫn vào phòng chứa đồ được hai người lính canh chừng. Họ có vũ khí, thế nhưng Malraux không sợ. Xử lý hai người này là chuyện dễ dàng. Hắn lại có lợi thế là đã quen biết họ trong mấy ngày qua.
Con tàu chòng chành, chầm chậm lướt theo những đợt sóng dài. Gã đàn ông có mái tóc đen và bộ ria lởm chởm lẹ làng chuyển động theo nhịp sóng. Không khí thật ngột ngạt. Cả gương mặt và toàn bộ cơ thể hắn bây giờ phủ một lớp mồ hôi rất dày. Gã cũng bốc mùi chẳng khác gì những người đàn ông đang ngủ kia.
Gã bò về phía cửa.
Tới bên ngưỡng cửa, gã đàn ông đứng lên, chạy đến bên một cửa sổ nhỏ, ném một cái nhìn về hướng Bắc. Hướng đó là bờ biển nước Pháp. Gã chưa nhìn thấy nó, nhưng gã có thể linh cảm ra nó, bởi có những đường viền mờ mờ đang hiện lên dưới ánh mặt trời gay gắt. Gã sẽ dễ dàng vượt qua được khoảng cách này, nó hoàn toàn chẳng thành vấn đề đối với người bơi giỏi như gã. Ngoài ra, hướng sóng cũng đang đổ về biển và đang có một cơn gió nhè nhẹ thổi tới từ hướng Nam. Những kẻ khéo léo như gã có thể để cho sóng mang mình lên, và thậm chí còn nghỉ ngơi trong khi bơi.
Mọi việc đang diễn ra trôi chảy.
Khi cẩn thận mở cánh cửa ra, hắn chẳng nhìn thấy người lính gác nào. Cửa gỗ có kêu lên cọt kẹt, nhưng chắc đám đàn ông đã quá mệt trong một ca gác quá dài.
Hắn lẻn ra ngoài.
Ngay lập tức, hắn cảm nhận được một luồng gió thổi thẳng vào mặt. Nó thoáng và lạnh hơn, gây cảm giác dễ chịu, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để xua khô lớp mồ hôi dày trên mặt hắn. Từ bên trên, ánh nắng len lỏi qua những kẻ hở giữa các tấm ván, rọi vào không gian trong bụng chiếc tàu buồm và vẽ lên trên mặt đất bẩn thỉu những hình ngoằn ngoèo sáng màu, nơi có vô vàn hạt bụi nhỏ đang nhảy múa.
Gã đàn ông biết gã phải đi về đâu. Những ngăn kho lớn nằm ở giữa và đuôi con tàu. Nơi gã muốn tới là một phòng nhỏ nằm ở dãy kho đầu. Con tàu đã được tạo dựng rất tiện lợi. Ở giữa có một lối đi, chia phía dưới boong tàu ra làm hai nửa. Mỗi bên đếu là những dãy nhà kho chất đầy hàng. Trước khi ra tới được lối đi ở giữa đó, gã đàn ông phải mở thêm một cánh cửa khác. Cánh cửa này gắn vào một vách ngăn ngang và đằng sau cánh cửa có hai người lính gác đang ngồi. Gã biết rõ như vậy. Gã đã chuẩn bị thông tin từ trước. Tình hình hôm nay chắc chắn cũng sẽ như thế.
Malraux cất bước đi. Lẹ làng, khéo léo như một tên ăn trộm.
Hắn không mang vũ khí, nhưng đôi bàn tay với những ngón tay ngắn khỏe không ngừng chuyển động. Không được để cho chúng trở thành đờ đẫn, dại khờ! Những người dân ở xứ Osmanen đã dạy cho hắn một số mánh khóe, có thể dùng tay trần bóp chết người.
Bầu không khí u ám trong bụng con tàu như một làn khói cô đặc. Một bầu không khí không bao giờ thật sự yên lặng. Mặc dù hắn không nghe thấy tiếng bước chân người, nhưng tiếng sóng vỗ không ngừng vào vách gỗ tạo nên một nền âm thanh luôn hiện hữu. Cả những ván gỗ thật ra cũng luôn phát âm thanh và chuyển động. Chúng rên rỉ như những tù nhân. Đứng ở đây, gã không nghe thấy tiếng reo ù ù của cánh buồm, tiếng thổi phần phật của vải, vốn được một số người coi là bí hiểm. Chỉ thỉnh thoảng, gã mới nhận ra âm thanh trầm đục của những bước chân chạy trên boong. Thỉnh thoảng, lại nghe thấy tiếng ra lệnh vẳng nhẹ từ bên trên xuống, hoặc một tiếng thét, một câu chửi rủa. Thế thôi.
Có cái gì vút qua mặt hắn như một bàn tay hết sức dịu dàng. Đó là đám lưới nhện đang phủ lòng thòng từ trên trần phòng xuống. Nhện ở đây không lo chết đói. Thỉnh thoảng lại có những con ruồi béo phì sa vào lưới.
Đến bên buồng gác, Malraux dừng chân. Hắn biết hắn chỉ có một mình, mặc dù vậy hắn vẫn cẩn thận nhìn quanh. Gã đàn ông không phát hiện ra ai. Gã cũng không nghe thấy âm thanh nào khả nghi. Trong một góc phòng có những cây bạch lạp đang cháy. Chúng chảy ra, trông như những khúc xương da trắng đã bị vứt đi. Đằng sau vách ngăn ngang là hai người lính gác. Đó không phải là thủy thủ, mà là những người lính được thuê về đây. Họ không quan tâm tới chuyện các giáo phái và họ chỉ chấp nhận tiền lương bằng vàng. Trong phòng họ ngồi bây giờ không tối hẳn, bởi ánh sáng đang lọt vào qua những khe hở nhỏ trên những vách gỗ. Mặc dù vậy, căn phòng vẫn gây ấn tượng rất u ám, như đang có vô vàn những bóng đêm nhảy múa trên nền phòng.
Malraux gõ cửa. Gã không gõ chậm hay gõ khẽ. Gã đập thật mạnh cả nắm đấm vào cánh cửa gỗ, đòi hỏi, yêu cầu, để hai người lính trong kia biết có người đang muốn vào trong.
Đầu tiên, không có phản ứng.
Thế rồi hắn nghe thấy một tiếng động.
Thanh chắn bằng gỗ ở phía trong được kéo sang bên. Cánh cửa mở. Nó vừa mở, vừa kêu lên một tiếng kêu tởm lợm khiến Malraux nổi da gà. Quầng sáng của một ngọn đèn dầu chiếu vào hắn. Người lính gác đang giơ cao cây đèn, giơ thẳng lên trên đầu khiến những bóng đèn phủ lên mặt anh ta. Malraux không nhìn thấy mặt người lính gác bởi nó đã chìm vào trong cái hỗn hợp giữa bóng đen và ánh đèn. Nhưng hắn nghe được giọng anh ta.
- Anh muốn gì?
- Tôi phải nói chuyện với các anh.
- Thế thì nói đi.
- Không phải ở đây. Đừng để cho ai nghe thấy tiếng chúng ta. Chúng ta… ta phải nói chuyện riêng.
- Tại sao?
- Người lái tàu cử tôi xuống. Anh ấy… anh ấy có một thông điệp gửi riêng cho hai anh. Mọi việc đã được thống nhất với thuyền trưởng. Vàng, rất nhiều vàng. Kể cả những đồ nữ trang quý giá.
Người đàn ông chần chừ. Malraux nghe thấy tiếng anh thở. Cả hai khái niệm “vàng và đồ nữ trang” luôn dễ dàng khiến cho những tên lính đánh thuê dỏng tai lên. Họ không biết những cái hòm kia đang chứa những gì. Họ chỉ nhận nhiệm vụ canh giữ chúng, tất cả những chuyện khác họ không quan tâm tới.
- Vào đi! Người lính gác thứ hai lên tiếng. Anh ta ngồi bên một chiếc ghế thấp, ở phía bên kia quầng sáng nên Malraux không nhìn ra anh ta.
- Có chuyện gì? Anh ta hỏi.
- Anh này mang thông tin lại.
- Của ai?
- Của người lái thuyền... Malraux nói nhanh... Chuyện này dính dáng đến rất nhiều vàng, có lẽ nên cân nhắc.
Giờ thì người lính gác thứ hai cũng đứng dậy. Nỗi tham lam lóe sáng trên con mắt. Cả hai người đã bỏ mũ xuống, tấm khiên che ngực cũng vậy. Không khí trong lòng thuyền quá nóng, họ đã cởi chúng ra cho thoải mái.
- Nói cho tôi nghe đi. Tên lính có vẻ háo hức.
Malraux vẫn còn chờ đợi. Họ có hai người. Gã phải tìm cách phân tán tư tưởng họ. Mà họ lại đang mang vũ khí. Những lưỡi giáo của họ ánh lên trong ánh sáng của lưỡi lửa bập bùng từ đĩa dầu. Gã thè lưỡi liếm môi, xin một ngụm nước.
- Chúng tôi không có. Một tên nói.
- Có chứ, tôi biết là...
- Cho nó đi! Người đàn ông đã mở cửa ban nãy vụt nói.
- Tùy anh.
Người đàn ông thứ hai bước vào phần trong của căn phòng tăm tối. Chỉ còn một người ở lại.
Malraux mỉm cười.
Người đàn ông đó đứng bên cạnh gã, mũi giáo đang chỉa xuống đất.
Kẻ lẻn vào chờ thời điểm thích hợp. Khi nghe thấy tiếng nước chảy, hắn biết là bây giờ nước từ trong một thùng rất lớn đang được chia sang thùng nhỏ.
Gã ra đòn nhanh hơn chớp.
Người lính gác hoàn toàn bất ngờ khi một khuỷu tay cứng như đá thúc mạnh vào giữa thân thể anh. Anh ta gục xuống, cảm giác khó chịu trào lên, khiến anh không kịp kêu ngay lập tức. Anh ngã người về phía trước. Malraux chỉ chờ có vậy. Gã đấm hai lần vào gáy người đàn ông.
Người lính gác xỉu xuống.
Malraux giành lấy cái giáo trong tay anh. Gã đàn ông lại mỉm cười lạnh lùng đi về phía trước, đến gần bóng tối.
Tiếng bước chân vang lên. Người lính gác thứ hai quay trở lại. Chắc chắn anh ta đang cầm một bình đầy nước. Anh ta không mang vũ khí, và không biết là Malraux đang chờ cho tới lúc nhìn thấy hình dáng anh hiện ra trong quầng tối.
Gã lấy đà, và phóng cây giáo nặng. Người lính gác hoàn toàn bị bất ngờ. Malraux không nhìn được rõ chi tiết. Gã chỉ nhìn thấy dáng người đó còn giật sang bên trái, rồi sang bên phải một thoáng trong bóng tối, cái bình đựng nước đập xuống dưới đất. Thế rồi cả thân hình người đàn ông cũng đập xuống. Kêu lên một tiếng trầm đục, thân người đó giáng xuống nền phòng rồi không động đậy nữa.
Malraux hài lòng. Gã đã chuẩn bị rất tốt và bây giờ gã biết rất chính xác, gã có thể tìm phòng đựng đồ vật ở chỗ nào. Những cánh cửa thậm chí không được đảm bảo bằng khóa hay dây xích. Hắn chỉ cần dùng một thân gỗ nặng và đẩy chúng sang bên.
Sau khi đã làm việc đó xong, gã quay trở lại, lấy cây đèn dầu. Gã không quan tâm đến xác chết, mà cũng chẳng thèm ném một cái nhìn xuống thân người đang ngất. Người đàn ông không động đậy. Malraux đoán chắc, bây giờ gã sẽ không bị ai cản trở. Gã đang rất hồi hộp. Đôi môi gã run rẩy, hai đầu gối như đang mềm ra khi bước vào căn phòng chứa châu báu.
Đặt cây đèn sang một bên, gã hít lấy một hơi thật sâu và đưa mắt nhìn quanh.
Nó có ở đây không?
Có! Cái hòm đó ở ngay bên cạnh hắn.
Gã đàn ông thì thào:
- Giờ thì ta sẽ ra tay.
Hết chương 1