Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

Vành đai khí độc - Chương 2 - Sir Arthur Conan Doyle

Thông tin truyện

Vành đai khí độc Chương 1 : Nhữn vạch nhạt nhòa
Tác giả : Jack London
Quốc gia : Anh Thể loại : Kinh dị Số tập : 1  Người dịch :  đang cập nhật
Đọc truyện

Serve 1

Khi chúng tôi băng qua phòng khách thì chuông điện thoại reo, và chúng tôi là người nghe bất đắc dĩ phần đối thoại của giáo sư Challenger. Tôi nói "chúng tôi" vì trong vòng 300 mét chắc ai cũng nghe thấy cái giọng oang oang như sư tử rống, đang vang dội trong nhà. Những câu trả lời của giáo sư cứ vương vấn mãi trong đầu tôi.  - Vâng, dĩ nhiên, chính tôi... Vâng, chắc chắn là giáo sư Challenger, giáo sư nổi tiếng ấy chứ còn ai nữa. Vâng, dĩ nhiên mọi chữ, nếu không thì tôi đă chẳng viết... Tôi chẳng lấy gì làm ngạc nhiên... có nhiều dấu hiệu của hiện tượng... một hay khoảng đó nữa là cùng... Không! Tôi không thể... làm sao được?... Chẳng vui gì, nhưng tôi cứ phải hình dung là nó sẽ gây tai hại cho người quan trọng hơn ông nhiều. Than thở về nó có ích gì... Không, tôi không thể... ông phải nắm lấy cơ hội... Điều đó quá đủ rồi, thưa ông. Vô lý! Tôi có nhiều việc quan trọng hơn là nghe chuyện tầm phào thế này.  Ông dập máy rồi dẫn chúng tôi lên lầu, vào một phòng rộng, thoáng khí. Trên cái bàn gỗ gụ lớn, bảy, tám cái điện tín đang đợi mở ra.  - Thật vậy à!... Ông vừa nói vừa cầm chúng lên... Tôi nghĩ là sẽ bớt được tiền gửi thư tín, nếu dừng một địa chỉ điện tín. Lấy địa chỉ Noah, Rotherfield (l) là thích hợp nhất.  Như mỗi khi ông muốn làm một trò cười, ông tì vào bàn, vừa cười vừa nói, hai tay múa may nên không mở được điện tín. Ông hổn hển nói “Noah! Noah!” mặt đỏ bừng lên. Tôi và Đức ông mỉm cười thông cảm, còn giáo sư Summelee thì khó đăm đăm, lắc đầu phản đối. Sau cùng ông cũng mở được mấy cái điện tín ra. Cả ba chúng tôi đứng ở cửa sổ phía cửa phòng, thưởng thức phong cảnh tuyệt đẹp, đáng thưởng thức.  Con đường đồi uốn lượn nhẹ nhàng, đã đưa chúng tôi lên một độ cao đáng kể 210m, sau này chúng tôi mới khám phá ra. Căn nhà của giáo sư Challenger ở ngay trên sườn đồi. Cửa sổ phía Nam nhà nhìn qua cánh rừng nhỏ, tới những cánh đồng cỏ xanh mởn, uốn lượn nhẹ nhàng South Downs, tạo thành một đường chân trời nhấp nhô. ở một khe giữa những quả đồi, một làn khói lam nhẹ, xác định vị trí thị xã Lewes. Ngay trước mặt chúng tôi là những cánh đồng thạch thảo trùng điệp, và sân golf Crowborough, với dải cỏ uốn lượn nhạt màu hơn, lác đác có vài người đang chơi. Hơi xa hơn về Nam, qua một khoảng rừng thưa, chúng tôi có thể thấy một đoạn đường xe lửa London - Brighton. Ngay phía dưới chân chúng tôi, là cái vườn nhỏ, trong có cái xe mới đưa chúng tôi từ ga về.  Một lời nói của Challenger mới thốt ra làm chúng tôi quay lại. Ông đã đọc xong các điện tín và xếp chúng thành một chồng. Bộ mặt rộng, gồ ghề, hay đúng hơn là phần mặt lộ ra khỏi bộ râu tóc xồm xoàm rối nùi, vẫn còn đỏ ửng, có vẻ như ông đang bị kích động dữ.  - Quý vị ơi!... Ông nói với chúng tôi với giọng to như thể đang nói trong một hội nghị... Buổi gặp mặt hôm nay rất là lý thú, vì tôi có thể nói là vào một thời điểm đặc biệt. Trên đường đi đến đây các ông có quan sát thấy dấu hiệu nào không?  - Điều duy nhất tôi quan sát được... giáo sư Summelee nói với một nụ cười chua chát... là người bạn trẻ của chúng ta chẳng có tiến bộ nào, trong cách cư xử, trong mấy năm qua. Rất buồn khi phải nhắc lại, là tôi đã phải than phiền về hạnh kiểm của ông ta ở trên tàu. Và tôi sẽ thiếu thành thật nếu không nói luôn là nó gây một ấn tượng kém vui trong đầu óc tôi.  Đức ông đỡ lời:  - Tất cả chúng ta ai cũng đều có những phút bốc đồng, hung hăng. Nhưng anh bạn trẻ của chúng ta không có ý làm hại ai. Nói cho cùng, ông ấy thuộc tuýp người quốc tế. Vì thế, nếu ông ấy có bỏ ra nửa giờ đồng hồ để kể lại một trận túc cầu, thì ông ấy cũng có quyền làm hơn nhiều người khác trong chúng ta.  Tôi tức giận la lên phản đối:  - Nửa giờ nói chuyện đá banh! Còn ông, dùng nửa giờ để nói chuyện dài hơi về một con trâu thì sao. Giáo sư Summelee sẽ làm chứng cho tôi.  Giáo sư Summelee hạ một đòn:  - Tôi không phán đoán được tiếng hai ông, ông nào gây khó chịu nhiều hơn. Nhưng tôi báo cho ông biết, Challenger, tôi chẳng thích nghe chuyện đá banh, cũng chẳng thích nghe chuyện trâu bò trong cả cuộc đời tôi.  Tôi cố cãi:  - Cả ngày hôm nay, tôi không nói lời nào về bóng đá cả.  Đức ông John huýt một điệu sáo lanh lảnh, còn giáo sư Summelee thì lắc đầu buồn bã, rồi nói: - Cũng nói vào lúc sáng sớm mới gặp nữa. Thật đáng tiếc, vì lúc đó mặc dù hơi buồn phiền, nhưng tôi đang yên lặng suy nghĩ... Đức ông John la lên:  - Im lặng! Chứ chẳng phải khi đó ông đang biểu diễn tạp kỹ, bắt chước muông thú hay sao. Nghe giống như cái máy hát trệch rãnh hơn là một nghệ sĩ.  Giáo sư Summelee ngồi thẳng lên để phản đối cho mạnh:  - Ông thích những trò cười không đúng lúc lắm, đức ông. Ông nói chua như giấm.  - Thôi, dẹp hết chuyện này đi. Thật là điên!... Đức ông John la lên... Mỗi chúng ta đều biết những việc người khác làm, nhưng chẳng biết chính mình làm gì. Hãy kể lại từ đầu. Chúng tôi vào một toa hạng nhất được hút thuốc. Đúng như thế phải không? Sau đó, chúng tôi cãi nhau về bức thư của giáo sư Challenger trên tờ Times.  - Ồ các ông cãi nhau về bức thư thật à? Ông chủ nhà hỏi oang oang, mắt híp lại.  - Giáo sư Summelee, ông nói rằng chẳng có chút sự thực nào trong lý luận của chủ nhà.  - Khổ tôi quá!... Challenger ưỡn ngực lên và vuốt râu... Chẳng có chút sự thực nào! Hình như tôi đã có nghe ai đó nói trước rồi. Xin hỏi giáo sư nổi tiếng Summelee, đưa ra những luận cứ nào để bác ý kiến thô thiển của kẻ hèn này về khả năng khoa học? Trước khi giáo sư loại được ảnh hưởng tai hại của chất vô hình này, xin giáo sư hạ cố cho biết quan điểm đối lập của giáo sư.  Ông vừa nói vừa cúi mình, nhún vai, xòe tay theo lối cực kỳ kiểu cách, mỉa mai.  Summelee phát biểu rất ngoan cố:  - Lý do tôi đưa ra rất giản dị. Tôi lý luận rằng nếu ether xung quanh trái đất gây độc trên một vùng, và dân chúng ở đó có những triệu chứng nhiễm độc, thì ba chúng tôi không thể còn an lành trong toa xe được.  Nghe lý luận như vậy, Challenger cười sang sảng thú vị. Ông cười cho đến lúc các đồ vật trong phòng lắc lư, rung lên lạch cạch. Sau cùng ông nói:  - Đây không phải lần đầu, giáo sư sáng giá Summelee không nắm được sự thực của vấn đề. Quý ông ơi, không gì tốt hơn để trình bày quan điểm của tôi, là tôi nói lại tỉ mỉ, việc tôi đã làm sáng nay. Khi hiểu được, chắc các ông có thể tha thứ phần nào vì đầu óc ta đôi khi bị lệch lạc chút đỉnh. Chính tôi có lúc đầu óc cũng bị mất thăng bằng, xáo trộn. Chúng tôi đã mướn Sarah quản lý nhà này vài năm. Họ của cô ấy là gì tôi không nhớ. Cô ấy là một phụ nữ nghiêm khắc, kín đáo trang nhã nhưng bản tính lạnh lùng. Chúng tôi chưa hề thấy cô ấy biểu lộ một chút tình cảm gì cả. Sáng nay, tôi đang ngồi ăn sáng một mình. Bà xã tôi thì có thói quen ngủ hết buổi sáng. Thình lình tôi nảy ra ý nghĩ tìm được mức độ lạnh lùng, an nhiên tự tại của cô gái này sẽ rất thú vị và bổ ích. Tôi nghĩ ra được cách kiểm nghiệm rất đơn giản nhưng rất hiệu quả: Tôi làm đổ một bình hoa giữa bàn, bấm chuông rồi chui xuống gầm bàn. Cô vào phòng, thấy phòng trống, tưởng tôi đã lên phòng làm việc. Đúng như tôi dự đoán, cô nhoài người trên bàn dựng bình hoa lên. Tôi thấy cẳng cô mang một vớ dài và chiếc giây thun giãn hai bên. Tôi thò đầu ra ngoạm một miếng vào bắp chân cô ấy. Cái thử nghiệm thành công ngoài sức tưởng tượng vì lúc đầu cô đứng chết trân, nhìn xuống đầu tôi rồi thét lên một tiếng, gỡ chân ra rồi lao ra ngoài phòng. Tôi đuổi theo cô với ý định thanh minh, giải thích vài điểm, nhưng cô đã bay ra đường xe, qua cổng. Tôi lấy ống nhòm và thấy cô đang chạy marathon về hướng Đông Nam. Tôi kể câu chuyện này cho các bạn vì ý nghĩa của nó. Tôi cấy nó vào đầu óc các bạn và đợi nó nảy mầm. Câu chuyện có minh họa được ý chính không? Nó gợi cho các bạn những ý tưởng gì? Đức ông nghĩ gì, John?  Đức ông John lắc đầu quầy quậy, rồi nói:  - Trong mấy ngày nay, nếu ta không cố tập trung kiểm soát ý chí của ta, ta có thể làm những hành động rồ dại, tai hại.  - Chắc giáo sư có vài nhận xét, Summelee?  - Ông phải ngưng ngay mọi công việc ông đang nghiên cứu, và đi nghỉ ở một công viên nước kiểu Đức ở đâu đó, để đầu óc ông nguội đi.  - Rất sâu sắc thâm thúy!... Giáo sư Challenger nói lớn... Nào, mời ông bạn trẻ. Hy vọng nghe được ý kiến khôn ngoan của ông. Những ông bạn già của chúng ta đã thất bại, điều đó rõ ràng rồi.  - Đúng là chuyện ông tiên đoán đã xảy ra... Tôi thành thực trả lời... Nó đã xảy ra và chỉ có ông biết rõ. Còn với chúng tôi, mọi sự đều mới quá nên không hiểu được rõ ràng. Và tự dưng, tôi tin tưởng tuyệt đối là chúng ta bị nhiễm độc không khí.  Và khi nói vậy, đầu óc tôi nhớ lại những cảm giác, những tâm trạng tôi trải qua từ sáng đến giờ: phải nghe chuyện trâu của đức ông, chuyện tôi khóc nức nở, chịu đựng những hành vi quái gở của giáo sư Summelee, thấy những chuyện kỳ cục ở London, chuyện cãi nhau ở công viên, người tài xế lái xe ẩu đả, cãi nhau ở công ty cung cấp oxy. Mọi sự việc đều khớp với nhau. Tôi quả quyết:  - Chắc chắn là vì chất độc. Tất cả chúng ta đều bị ngộ độc. Giáo sư Challenger xoa hai tay vào nhau, nói:  - Đúng thế, chúng ta đang ngộ độc. Trái đất của chúng ta đang lao vào một vành đai ether độc, và đang lao sâu vào đó với vận tốc vài triệu dặm một phút. Ông bạn trẻ của chúng ta đã diễn tả nguyên nhân các xáo trộn thần kinh của chúng ta và các sự việc gây cho chúng ta ngỡ ngàng, bằng một từ ngữ ngắn gọn “chất độc”.  Chúng tôi nhìn nhau ngỡ ngàng im lặng, xem ra chẳng còn lời bình luận nào thích hợp cho tình cảnh lúc này.  Giáo sư Challenger tiếp:  - Thần kinh chúng ta có cơ chế tự vệ, chống xâm nhập, có thể ngăn chặn và giới hạn những triệu chứng nhiễm độc trong tùy từng người. Tôi không cho là độc chất gây hại trong các bạn, y như mức nó gây hại trong tôi. Tôi cho rằng cơ chế hoạt động thần kinh khác nhau trong mỗi người, hóa giải được một phần chất độc khác nhau. Điều này, kinh nghiệm của anh bạn trẻ đây đã xác nhận. Sau cơn điên điên của tôi đã làm cô quản gia hú vía tới già, tôi ngồi im suy gẫm. Tôi nghiệm ra rằng từ trước tới giờ, tôi chưa hề bị xung động thôi thúc cắn người làm trong nhà bao giờ. Tôi nhận ra xung động kỳ này là bất thường. Tôi kiểm tra nhịp tim. Tăng mười nhịp so với bình thường. Các loại phản ứng của tôi đều tăng. Tôi cố gắng huy động và triệu dụng con người thật của tôi còn lành mạnh, ở mức còn làm chủ được ở tầm mức cao, con người thật của Geolge Edward Challenger, chưa bị những biến động cấp phân tử ảnh hưởng. Tôi ngồi im, tĩnh tại, dùng phương pháp nội quan, tách riêng những hành vi, những ý nghĩ manh động do chất độc gây trên hệ thần kinh, trên tinh thần của ta. Tôi thấy rằng tôi vẫn làm chủ được bản thân mình, tôi vẫn có thể kiềm chế được cái đầu óc lộn xộn của tôi. Đây là một ví dụ xuất sắc về tinh thần thắng vật chất, tinh thần làm chủ vật chất. Cuộc chiến thắng trên một dạng vật chất đặc biệt, vốn có liên hệ khăng khít với tinh thần. Hầu như tôi có thể khẳng định được rằng đầu óc ta có thể sai lầm và nhân cách của ta có thể điều khiển được đầu óc. Bởi vậy khi bà xã tôi xuống dưới nhà, tôi đã lẻn ra sau cửa, đánh động cho bà ấy biết bằng vài tiếng la hoảng. Tôi đã trấn áp được những xung động não và đón bà ấy chững chạc, bình thường, tự chế. Tôi cũng bị thúc đẩy muốn kêu lên vài tiếng quạc quạc như vịt, tôi cũng trấn áp được bằng cùng cách đó. Sau đó muộn hơn, lúc xuống yêu cầu Austin chuẩn bị xe. Austin đang nghiêng mình loay hoay sửa chữa, tôi đã xòe tay và giơ lên định đập Austin một cú bất thình lình sau lưng, chắc chắn sẽ làm ông ấy chuồn thẳng một mạch, như cô quản gia của tôi. Nhưng may thay tôi đã tự chế được, điều khiển được tay mình. Và ngược lại với dự tính oái oăm quỷ quái, tôi chạm nhẹ vai anh và yêu cầu chuẩn bị xe để kịp giờ. Ngay lúc này đây, tôi đang bị thúc đẩy nắm lấy bộ râu của giáo sư Summelee, và sẽ giật ngược đầu ông ấy ra sau rồi lại ghìm về trước. Nhưng rồi, như các ông thấy, tôi đã tự chế được. Để tôi phân tích và phê bình tâm trạng và hành động của tội cho các ông nghe.  Đức ông John nói:  - Tôi sẽ tìm con trâu đó.  - Còn tôi sẽ xem trận túc cầu.  Giáo sư Summelee, rất ngạc nhiên lại nói bằng một giọng ân hận:  - Tôi sẵn sàng công nhận, đầu óc tôi lúc này thích chỉ trích hơn là xây dựng, không sẵn sàng tiếp thu những giả thiết mới, nhất là cái giả thiết vừa bất thường vừa quái dị như lần này. Nhờ hồi tưởng lại những chuyện sáng nay, xét lại thái độ, cử chỉ giả hiệu của các bạn, tôi công nhận là có một chất độc kỳ lạ đang gây độc cho chúng ta.  Giáo sư Challenger vui mừng vỗ vai đồng nghiệp:  - Chúng ta có tiến bộ! Thật sự tiến bộ.  Summelee càng khiêm nhường hơn, hỏi:  - Vậy, xin giáo sư làm ơn cho biết quan điểm hiện nay của giáo sư về vấn đề này. - Xin phép các ông, tôi xin trình bày vài lới về chủ đề này.  Giáo sư ngồi vào bàn, hai cái chân mập, lùn đung đưa trước mặt.  - Chúng ta đang chứng kiến một sứ mạng to lớn và khủng khiếp. Theo ý tôi, đó là ngày tận thế.  "Tận thế!". Chúng tôi không ai bảo ai, cùng hướng mắt ra cái cửa sổ khung vòm, nhìn quang cảnh vùng đồi xinh đẹp dưới nắng hè, những triền đồi phủ đầy thạch thảo, những nhà nghỉ mát hoành tráng, những trang trại ấm cúng, những người tìm vui thú trên sân golf.  "Ngày tận thế". Chúng ta đã từng nghe những từ này, nhưng chúng không gây một ấn tượng trực tiếp, tức thời như bây giờ. Nó sẽ không xảy ra vào một ngày tiên tri mơ hồ nữa, mà ngay bây giờ, ngày hôm nay. Ý tưởng tận thế to lớn, hùng mạnh, choáng ngợp làm ta bàng hoàng, quay cuồng. Chúng tôi đều nghiêm trang, kính cẩn, yên lặng chờ Challengel nói tiếp. Sự hiện diện và dáng vẻ khống chế của ông khiến lời nói của ông trang trọng khác thường. Vào những giây phút này, mọi thô thiển, vô lý trần tục của con người đều biến mất, ông hiện ra dưới mắt chúng tôi là một đấng oai nghiêm, trên mức nhận thức thông thường của con người. Rồi, ít nhất là mình tôi, nhớ lại từ lúc vào phòng, giáo sư đã cười hai cơn sảng khoái, siêu thoát. Nhưng tôi nghĩ, có đánh lừa tâm trí mình cũng chỉ đến được một giới hạn thôi, tôi yên trí là tai họa này không vĩ đại, tối hậu, bức thiết như ta tưởng.  - Các ông cứ tưởng tượng một chùm nho, ngoài vỏ có vô số vi khuẩn lên men có hại. Nhà làm vườn nhúng vào một môi trường sát khuẩn để nho sạch, hay để cấy vào đó một chủng vi khuẩn có lợi cho tiêu hóa hơn. Ông ta nhúng vào độc chất, các vi khuẩn chết sạch. Nhà làm vườn định nhúng thái dương hệ của chúng ta, và những vi-khuẩn-người đang ngoe nguẩy, lúc nhúc ngoài vỏ địa cầu, chỉ trong nhấp nháy bị tiêu diệt.  Tất cả chúng tôi lại rơi vào im lặng. Rồi tiếng chuông điện thoại lanh lảnh phá tan sự tĩnh mịch. Giáo sư Challenger nói với vẻ mặt nghiêm túc:  - Lại một con vi-khuẩn-người ngọ ngoạy cầu cứu. Bây giờ họ mới thấy kiếp sống của con người đâu có cần thiết trong vũ trụ.  Ông đi trả lời điện thoại một, hai phút gì đó. Chúng tôi chẳng ai nói một tiếng khi giáo sư vắng mặt. Tình cảnh của chúng tôi thật không nói nên lời hay không còn gì nữa mà bình luận. Khi trở lại giáo sư bắt đầu:  - Cán bộ y tế hạt Brighton, ở vùng càng cao, triệu chứng ngộ độc phát triển càng nhanh. Chúng ta ở trên độ cao 210 mét nên có lợi hơn, bị ngộ độc chậm hơn. Công chúng có vẻ như thấy tôi là người đầu tiên nói về tai họa này. Dĩ nhiên, qua lá thư của tôi trên tờ Times. Khi mới về nhà, tôi đã tiếp chuyện ngài Thị trưởng của Thị trấn. Ông ấy cuống cuồng lo lắng cho mạng sống cá nhân mình, mà ông ấy tưởng là quí giá lắm. Tôi phải giúp ông ta điều chỉnh lại nhân sinh quan.  Giáo sư Summelee đang đứng ở cửa sổ, hai cánh tay dài, khẳng khiu đang run lên vì xúc động. Ông hăm hở nói:  - Challenger, chuyện này quá quan trọng, không thể chỉ ngồi lý luận suông với nhau. Xin ông đừng phật ý khi tôi hỏi những câu này. Có thể nào những thông tin ông nhận được có thể sai lầm không? Có thể nào trong chuỗi lý luận của ông chưa thật sự mạch lạc không? Mặt trời vẫn le lói chiếu sáng trên nền trời xanh, vẫn những cánh đồng thạch thảo xanh rờn, vẫn có chim chóc, vẫn có những người giải trí trong sân golf, vẫn có những nông dân đang gặt lúa. Ông bảo họ và chúng ta đang ở trên bờ vực thẳm. Cái ngày nắng ấm này sẽ là ngày tận diệt loài người, ngày họ hằng bảo nhau chờ đợi từ lâu. Ông phán đoán điều ghê gớm này dựa trên những cái gì? Dựa trên những dải, những vằn quang phổ, dựa trên tin đồn đại của dân địa phương Sumatra? Dựa trên những suy nghĩ, cử chỉ bất thường của mỗi chúng ta. Các dấu hiệu này chưa thuyết phục là chúng ta bị ngộ độc, vì chỉ một chút cố gắng chúng ta đã tự khắc phục được. Ông không cần khách sáo nữa, Challenger. Chúng ta cùng sắp sửa đối diện với cái chết. Xin ông cứ nói thẳng, theo ông, tình trạng hiện tại của chúng ta, và tương lai chúng ta. Đó là những lời nói can đảm, gãy gọn, trên một lập trường vững chắc, tinh thần sáng suốt thực tế, bằng tất cả uy tín và chính trực của một nhà động vật học kỳ cựu.  Đức ông John đứng dậy lắc tay ông biểu đồng tình.  - Nhất trí với con bọ nhảy. Và ông Challenger, xin ông cho biết tình trạng của chúng ta đang ở đâu. Chúng ta không phải là những người rối trí. Ông mời chúng tôi tới thăm ông cuối tuần và thấy ông đã chuẩn bị lao thẳng vào ngày phán xét cuối cùng. Xin ông cho chúng tôi vài lời giải thích. Nỗi nguy hiểm là cái gì, ở trong nhà này nguy hiểm ở mức độ nào, có cách nào để đối phó không?  Đức ông John cao, khỏe, đứng ở cửa sổ tràn ngập ánh nắng, vịn một tay đen xạm lên vai Summelee.  Tôi ngả người sâu vào lưng ghế, điếu thuốc tắt ngấm vẫn còn trên môi, tâm hồn tôi đang ở trong trạng thái mơ màng và tôi ý thức rất rõ. Có thể chúng tôi đang ở một giai đoạn ngộ độc khác, xung động thôi thúc hành động hung hăng đã qua, nhưng tôi có tâm trạng rất lo buồn. Tôi như người quan sát bàng quan, như thể tai họa chẳng khiến cá nhân tôi quan tâm. Nhưng có ba người khỏe mạnh khác trong phòng, quan sát và nhận xét về họ ở giờ phút hấp hối chắc sê rất thú vị.  Challenger nhíu đôi mày rậm, quết quết bộ râu rối trước khi trả lời. Ta có thể thấy ông cố cân nhắc từng câu, từng chữ thận trọng. Ông hỏi:  - Các ông có tin tức gì trước khi rời London không?  - Tôi rời tòa báo Gazette lúc 10 giờ. Có một điện tín của hãng Reuter từ Singapore cho biết dân đảo Sumatra nhất loạt bị ngộ độc và hải đăng ở đó không sáng lên được nữa.  Challenger tiếp:  - Từ lúc ấy, biến cố có vẻ phát triển rất nhanh.  Ông cầm xấp điện tín lên:  - Tôi liên lạc với cả chính quyền lẫn báo giới, vì thế tôi nhận được thông tin từ mọi nơi. Mọi giới khẩn khoản mời tôi có mặt ở London, nhưng tôi thấy dù có lên đó tôi cũng không đạt được kết quả mong muốn. Theo những tường thuật, hậu quả ngộ độc lúc đầu là tinh thần bị kích động. Ở Paris, dân chúng rối loạn và có xảy ra bạo động. Phu mỏ ở vùng Welsh cũng vùng lên nêu yêu sách. Chúng ta chỉ mới có những bằng chứng này đáng tin. Ở giai đoạn kích động này, hiệu quả ngộ độc tùy theo mỗi sắc dân và tùy mỗi cá nhân. Sau đó đến giai đoạn đầu óc tỉnh táo, tâm thần thấy phấn chấn vui vẻ. Tôi có nhận thấy vài dấu hiệu của giai đoạn này ở ông bạn trẻ của chúng ta đây. Và cuối cùng là đến giai đoạn buồn thảm, rơi vào hôn mê, tiến sâu vào cõi vô thức rồi chết. Căn cứ vào kiến thức về độc chất của tôi, chất độc chúng ta gặp tác động lên hệ thần kinh thực vật của ta... - Như là độc dược. Summelee gợi ý.  - Tuyệt!... Challenger reo lên... Có một cái tên sẽ tăng phần chính xác khoa học. Chúng ta gọi nó là chất “Daturon”. Ông sẽ là người có vinh dự đã đặt tên cho chất giết người toàn cầu, ông sẽ được tôn vinh sau khi chết nhưng không kém phần độc đoán. Người đặt tên cho chất sát khuẩn của Người Làm Vườn Vĩ Đại. Vậy thì, chất daturon sẽ gây ra những triệu chứng theo ba giai đoạn như tôi đã mô tả. Chất độc sê trùm lên khắp thế giới và chắc chắn chẳng còn mạng nào sống sót, vì ether vốn là môi trường đầy ắp vũ trụ. Đến giờ phút này. Ether gây những hậu quả rất khác nhau ở những nơi chúng quét qua. Nhưng sự khác biệt này chỉ xảy ra trong vài giờ. Giống như thủy triều liếm dần những dải cát ven biển theo những hình dạng loang lổ, nham nhở, nhưng cuối cùng thì toàn bộ bãi biển chìm ngập trong nước. Có những qui luật về khí động học, chi phối tác động và phân bố khí daturon. Nếu chúng ta còn giờ nghiên cứu sâu hơn chắc thú vị lắm. Tôi chỉ mới theo dõi được diễn biến lới đây...  Ông liếc qua vào tập điện tín.  - Dân tộc nào càng bán khai càng bị daturon tác động nhanh. Có những báo cáo đáng tiếc từ Phi châu, từ Úc châu, cho biết nhiều bộ tộc thổ dân đã bị tận diệt. Các dân tộc phương Bắc có khả năng kháng độc mạnh hơn các dân tộc phương Nam. Cái điện này đến từ Marseilles lúc 9 giờ sáng nay. Tôi đọc cho các ông nghe nhé. "Suốt đêm, người ta la ó điên loạn ở vùng Provence, dân trồng nho ở Nimes gây xáo trộn. Đảng xã hội dấy loạn ở Toulon. Một chứng bệnh đột xuất tấn công toàn bộ dân chúng sáng nay gây kích ngất và hôn mê. Trận Dịch Sấm Sét đã gây tử vong nhiều người ngoài đường phố. Công việc làm ăn buôn bán bị đình trệ toàn bộ, toàn thể xã hội xáo trộn..." Một giờ sau tôi nhận được điện tín này, cũng từ cùng một nguồn: "Chúng tôi đang bị đe dọa tận diệt. Các giáo đường lớn, nhà thờ đầy tràn người. Người chết nhiều hơn người sống. Thật là khủng khiếp không thể tưởng được. Cái chết xem ra không đau đớn, nhưng nhanh và không thể tránh khỏi". Cũng có một điện tín tương tự từ Paris, nhưng cơn dịch tiến triển không nhanh bằng. Ấn Độ, Ba Tư coi như dân số đã bị xóa sạch. Ở Áo, dân Slavonie coi như đã bị xóa sổ, nhưng dân Đức, sắc dân Tentonie lại có vẻ như không hề hấn gì. Nói chung dân ở đồng bằng và dân duyên hải mau cảm thấy hậu quả của chất độc hơn dân ở sâu trong nội địa và dân vùng cao, nếu chỉ căn cứ vào những thông tin tôi có trong tay. Chỉ ở chênh lệch nhau một độ cao ngắn, hậu quả của chất độc đã khác nhau rõ rệt. Thảng hoặc nếu còn người nào sống sót, có lẽ, một lần nữa chúng ta lại thấy người đó trên một đỉnh Ararat nào đó (2). Ngay như chúng ta chỉ ở trên một ngọn đồi 210 mét trên mực nước biển, cũng coi như ta đang may mắn ở trên một hòn đảo giữa đại dương thảm họa. Nhưng với tốc độ phân bố chất độc như thế này, thì chỉ vài giờ nữa là chúng ta bị tràn ngập.  Đức ông Roxton lau mồ hôi trán, rồi run run nói:  - Cái tôi không hiểu, là làm sao mà ông có thể còn ngồi đây mà cười với chồng điện tín trong tay được? Tôi cũng đã nhìn thấy nhiều cái chết như phần đông chúng ta thấy. Nhưng nhân loại bị tận diệt thì... kinh khủng quá.  - Về chuyện tôi cười, các ông nhớ là, tôi cũng bị ether độc tính kích thích như các ông, đâu có được miễn. Về cái chết toàn bộ như nó đă gợi trong trí ông. Tôi có thể cho ông hay, là ông hơi phóng đại nỗi sợ hãi. Nếu ông ra khơi một mình trên một chiếc thuyền không có mui, để đến một nơi vô định, chắc ông sẽ sợ chết khiếp. Sự cô đơn, sự bấp bênh bất định cũng đủ làm ông tê liệt. Nhưng nếu ông đi trên một chiếc tàu thủy tốt, với cả họ hàng, bạn bè, dù có phải đến một nơi bất định, ông cũng vẫn cùng chia sẻ, cùng nếm trải, ông vẫn giữ được mối cộng đồng cảm thông ấy trong suốt cuộc hành trình. Một cái chết đơn độc có thể dễ sợ, nhưng chết nhất loạt, không đau đớn như tai họa này, theo ý tôi, chẳng có gì đáng sợ. Thật vậy, tôi có thể cảm thông với người có quan điểm là, nỗi sợ nằm ở chỗ tất cả những người đầy kiến thức, nổi tiếng được tôn vinh đã chết hết, mà mình thì sống sót, lạc loài.  Giáo sư, người đã vừa đồng ý với người anh em đồng giới của ông, hỏi:  - Vậy giáo sư thấy chúng ta cần làm gì?  - Ăn trưa, vì tiếng chuông báo bữa ăn đã vang lên. Chúng ta có bà nấu bếp làm món omelettes ngon tuyệt, và cũng chỉ có món sườn nướng của bà ấy có thể sánh với món này thôi. Tôi tin rằng chẳng có xáo trộn vũ trụ nào có thể làm lụt tài nấu ăn của bà ấy được. Nàng Scharzberger của năm 1896 phải được cứu thoát, nếu chúng ta cùng nỗ lực, nhiệt tình, khỏi cái thảm họa tận diệt oan uổng này... Ông nhấc cái thân nặng nề khỏi ghế, nơi ông vừa ngồi loan báo ngày tận diệt của hành tinh... Nào, chúng ta còn càng ít thời giờ chừng nào, chúng ta càng phải sống cho tỉnh táo, cho đáng sống bấy nhiêu.  Thật vậy, chúng tôi đã có một bữa ăn ngon và vui, mặc dù vẫn không quên hoàn cảnh bi thảm. Toàn bộ tính nghiêm trọng của câu chuyện khi nãy vẫn lù lù trong óc chúng tôi, và điều chỉnh tư tưởng chúng tôi. Nhưng chính cái tâm của mình chưa hề đối diện với cái chết, đã giúp tinh thần chúng tôi cuối cùng đã tránh xa được nỗi ám ảnh chết chóc. Với mỗi người trong bọn đàn ông chúng tôi, đều đã trải qua một thời đại chiến, nên chuyện chết chóc vẫn thường lởn vởn trong đầu. Với bà chủ nhà, bà ấy dựa vào sự hướng dẫn mạnh mẽ của chồng, và sẵn sàng bằng lòng đến bất cứ nơi nào số phận đưa đẩy. Hiện tại là của chúng tôi, và chúng tôi đă sống được những giây phút trong tình bạn thực sự và khinh khoái trong lòng. Đầu óc chúng tôi, như tôi đã nói, thật trong sáng nhẹ nhàng. Tuy nhiên, lâu lâu tôi lại cảm thấy sợ như bị sét đánh.  Còn giáo sư Challenger, ông ấy thật tuyệt. Tôi chưa bao giờ cảm thấy cái vĩ đại của con người như vậy. Ông thật sự có quyền lực của tri thức sâu rộng.  Giáo sư Summelee thì vẫn tiếp tục hỏi ông bằng cái giọng châm chọc bi quan. Tôi và đức ông John chỉ cười khi hai ông tranh luận. Bà chủ luôn bám cánh tay ông chồng, để kiềm chế nhà minh triết đừng tranh luận gay gắt.  Sống, chết, số phận là định mệnh của nam nhi, là những vấn đề nặng ký đè ập lên tâm trí chúng tôi, vào những giờ phút đáng nhớ cuối cùng này. Chúng hiện lên to lớn quá, trùm lợp cả cái không khí hoan lạc thần tiên, chúng chạy rần rần trong tứ chi tôi. Tôi cảm thấy chết chóc đang dâng lên, như sóng triều phủ chụp lấy chúng tôi. Tôi đã thấy đức ông thình lình chụp tay dụi mắt, giáo sư Summelee ngồi đựng lên trong ghế. Nhưng tâm hồn chúng tôi vẫn tỏ vẻ vui vẻ, thảnh thơi.  Ngay lúc đó Austin đặt thuốc lá lên bàn và chuẩn bị rút lui.  - Austin! Chủ anh gọi.  - Dạ, chi ạ?  - Cám ơn ông đã giúp việc chúng tôi rất tận tụy, trung thành. Một nét cười kín đáo lóe trên nét mặt nhăn nheo của người gia nhân.  - Tôi chỉ làm theo bổn phận, thưa ông.  - Tôi đang đợi ngày tận thế đây, Austin.  - Vâng, thưa ông. Tận thế lúc mấy giờ ạ?  - Tôi không nói chính xác được, Austin, trước tối nay.  - Vâng ạ, thưa ông.  Ông Austin chào rồi ra khỏi phòng.  Giáo sư Challenger châm một điếu thuốc, kéo ghế đến cạnh vợ, nắm tay bà:  - Em đã biết số phận của chúng ta đang ở đâu. Em không sợ phải không nào? Anh cũng đã nói cho các bạn đây biết. - Không đau đớn, phải không anh? - Chỉ như nha sĩ chích khí gây cười (thuốc tê) cho em thôi. Đợi khi em cảm thấy đau thì em đã thực sự chết rồi.  - Như vậy thì chắc ta có cảm giác thú vị lắm.  - Vâng, khi chết có thể như vậy. Cái cơ thể cằn cỗi của chúng ta không thể ghi và lưu lại ấn tượng của cái chết, nhưng ta biết có khoái lạc tinh thần trong nhưng cơn mơ hay hôn mê. Thiên nhiên có thể tạo một cái cửa lộng lẫy, màn che, trướng rủ để đón linh hồn chúng ta sang một kiếp sống mới. Trong tất cả những nghiên cứu, thăm dò hiện thực, anh đều thấy trong cốt lõi mọi sự việc đều có chân và thiện. Ngay cả trong cái chết, dù có dễ sợ đến đâu, cũng có sự êm diu. Chắc chắn như vậy để người chết đi được quãng đường quá độ từ kiếp này sang kiếp khác. Không đâu Summelee, tôi không thể chấp nhận một chút gì về cái thuyết duy vật của anh. bởi vì, ít nhất bản thân tôi quá vĩ đại, không thể chỉ chấm dứt trong cái cơ thể vật lý này, cấu tạo bằng vài bịch các loại muối và khoảng ba xô nước. Mà, mà... Ông gõ nhẹ cái bàn tay lông lá lên đầu... mà còn cái gì sử dụng được vật chất, một cái gì thủ tiêu được cái chết, nhưng cái chết không tiêu hủy được nó.  Đức ông John lên tiếng:  - Nói về cái chết, tuy gần như là người theo đạo Thiên Chúa, tôi thấy trong cái chết còn có một lực siêu nhiên. Tổ tiên ta đã được an táng với rìu, cung tên hay các vật tùy táng tương tự, tôi vẫn cảm thấy sự hiện hữu của họ, họ vẫn sống theo kiểu xưa xung quanh ta. Tôi không biết vì sao,... ông nói thêm và nhìn lên bàn với vẻ thẹn thùng..., tôi không đủ bình tĩnh để sang bên kia thế giới bằng khẩu 450 Express, loại ngắn báng cao su ấy, với một hay hai băng đạn. Đó chỉ là một hoang tưởng điên khùng, nhưng thực sự tôi nghĩ vậy. Ông nghĩ sao về cái chết, ông giáo sư?  - Được ông hỏi tôi mới nói. Chết kiểu đó giống như lùi lại thời đồ đá hay sớm hơn nữa, lúc người ta chưa thể tự vệ được. Đang sống ở thế kỷ 20, tôi muốn chết như một người văn minh. Không biết tôi có sợ chết hơn các ông không. Tôi già rồi. Gì thì gì, tôi cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa. Nhưng tôi không thể cứ ngồi yên chờ chết, dù tôi có là con cừu sắp lên bàn mổ, tôi cũng phải vẫy vùng, đá, húc tên đồ tể. Thật sự chúng ta chẳng còn làm gì được sao, Challenger?  - Để tránh khỏi thảm họa thì chẳng còn cách nào cả... Giáo sư Challenger nói lạnh lùng đến sợ toát mồ hôi... Chỉ có thể kéo dài đời sống thêm được vài giờ để xem thảm kịch vĩ đại này diễn biến ra sao thôi, trước khi chính chúng ta bị nhấn chìm trong thảm họa đó. Điều này thì tôi làm được và tôi đã có chuẩn bị vài bước...  - Oxy?  - Đúng, oxy.  - Nhưng oxy thì gây được hậu quả gì với ether độc? Một cục gạch và một chất khí còn có lý tính và hóa tính khác nhau ít hơn là ether và oxy. Chúng là hai dạng vật chất khác nhau, chúng không tác dụng lên nhau. Thôi đi, Challenger, ông không thể biện minh được một kế hoạch như vậy.  - Ui da, ông giáo sư Summelee tài ba ơi! Độc chất ether này chắc chắn bị các tác nhân vật chất khác ảnh hưởng. Tôi suy ra điều này qua phân tích cách thức và phân bổ thảm họa khi bộc phát. Chúng ta chưa tiên nghiệm được khí này, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, nó là một thực thể. Từ đó tôi tin chắc là một khí như oxy, chất tăng cường sinh lực và sức đề kháng của cơ thể, có thể làm trì hoãn tác động của chất daturon mà ông đã có hận hạnh đặt tên. Có thể hành động chuẩn bị của tôi sai, nhưng tôi quả quyết là lý luận của tôi rất đúng đắn.  Đức ông John buột miệng nói ra sự thiếu tin tưởng:  - Dù có vậy chăng nữa, nếu cứ phải ngậm những cái vòi oxy để thở như con nít bú bình, tôi cũng chê.  Challenger trấn an ông:  - Không cần phải như vậy. Chúng tôi đã sắp đặt cả rồi. Ông phải cám ơn bà xã tôi vì cái phòng khách của bà ấy rất kín hơi và thực dụng, có nệm và giấy dán tường kín hơi như “gioăng” cao su.  - Trời đất quỷ thần ơi! Ông Challenger, ông định ngăn hơi ether vũ trụ bằng giấy dán tường đấy à?  - Đúng thế, ông bạn tài năng ạ. Ông suy nghĩ kỳ quặc quá nên đã lạc đề. Khi tai họa ập tới, chúng ta không ngăn cản khí ether tràn vào mà để giữ oxy đừng thoát ra. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng, nếu ta cố duy trì được môi trường giàu oxy, ta có thể vẫn còn tỉnh táo. Tôi có hai bình và các ông đã đem thêm tới ba bình. Không nhiều, nhưng cũng đáng kể đấy chứ.  - Ta sử dụng được trong bao lâu?  - Tôi không thể đoán trước được. Chỉ khi nào chúng ta hết chịu đựng nổi ether độc, ta mới mở oxy và cũng sẽ chỉ cung cấp thêm cho những ai cần khẩn cấp. Như thế chúng ta còn có thể sống thêm vài giờ hoặc vài ngày, để chứng kiến cảnh thế giới bị hủy diệt. Mạng sống của chúng ta được duy trì đến lúc đó, chúng ta sẽ trải nghiệm những giây phút độc đáo nhất. Năm chúng ta sẽ là đội quân hậu bị của loài người bước vào cõi vĩnh hằng. Rồi, các ông giúp tôi một tay sắp xếp các bình oxy. Bầu không khí đã có vẻ ngột ngạt lắm rồi.
Hết chương 2
Hết : Giới thiệu - Xem tiếp : Chương 1

Serve 1

Nhất định là tôi phải ghi lại tức khắc biến cố kỳ diệu này khi đầu óc tôi còn nhớ rộ mồn một, e rằng để lâu những chi tiết có thể phai nhòa. Tuy nhiên, tột vẫn chưa hết ngỡ ngàng về sự trùng phùng kỳ lạ của bốn người chúng tôi trong nhóm “Thế giới lạc loài”. Gặp nhau và cùng trải qua kinh nghiệm lạ thường này: Giáo sư Challenger, giáo sư Summerlee, đức ông Roxton và tôi. 
Từ vài năm trước, tôi đã tường thuật cuộc du hành đánh dấu một thời đại của chúng tôi sang Nam Mỹ, trong tờ Daily Gazette. Tôi đâu có ngờ lại được dịp kể lại một kinh nghiệm cá nhân lạ lùng và độc nhất trong lịch sử nhân loại, nổi bật lên như một đỉnh cao giữa những đồi núi thấp lè tè xung quanh. Bản thân biến cố đã là kỳ diệu, nhưng việc bốn người chúng tôi tụ họp với nhau vào cái thời điểm bất thường ấy, vừa có vẻ tự nhiên vừa có vẻ không thể khác được. Tôi sẽ cố thuật lại những hoàn cảnh khiến chúng tôi họp mặt với nhau càng ngắn gọn, rõ ràng càng tốt, mặc dù đại đa số quần chúng vẫn chưa thỏa mãn, muốn biết dầy đủ chi tiết hơn. 
Thứ Sáu, ngày 27 tháng 8, ngày sẽ ghi nhớ mãi trong lịch sử nhân loại, tôi đến tòa soạn tờ báo để xin ông McArdle ba ngày nghỉ phép. Ông vẫn là Trưởng ban tin tức của chúng tôi. Ông già tốt bụng, dân Scotch, lắc đầu, tay gãi gãi cái nấm mũ đỏ hoe, cuối cùng ông mới phải nói cái chẳng đặng dừng ra. 
- Ông Malone, lúc này tôi đang định giao cho ông một nhiệm vụ có lợi nhất cho tờ báo. Có một đề tài chỉ có ông mới theo dõi và xử lý đúng cách được. 
- Rất tiếc ông ạ!... Tôi cố che giấu thất vọng... Dĩ nhiên, nếu có công tác thì đành dẹp chuyện nghỉ phép lại. Nhưng cái hẹn của tôi rất quan trọng và trong vòng thân mật. Nếu tôi được miễn cái công tác của ông... 
- Này, ông không miễn được đâu. 
Thật chua chát, nhưng tôi cố tỏ ra bình thản. Nói cho cùng là lỗi tại tôi, vì tình hình lúc này thì không nhà báo nào còn có thể nghĩ đến chương trình cá nhân. Tức khắc, tôi cố tỏ ra vui vẻ: 
- Thôi được, tôi không nghĩ tới đi phép nữa. Ông muốn tôi làm gì nào? 
- Có thế chứ! Ông sẽ đi phỏng vấn một tay phù thủy ở Rotherfield. 
- Ông không nói tới giáo sư Challenger đấy chứ? 
- Ồ chính tôi muốn nói tới ông đó đấy. Tuần qua, ông ấy đã nắm cổ áo và ống quần cậu Alee Simpson của tờ Courier, kéo cậu ta đi cả nửa dặm đường, tuốt ra xa lộ. Chắc ông đã có đọc bài tường thuật của cảnh sát. Phỏng vấn ông ta chẳng khác nào nói chuyện với cá sấu ngoài đầm hoang. Nhưng tôi tin là ông làm được, ông vốn là bạn cố cựu với ông ta mà. 
Tôi nhẹ nhõm cả người. 
- Sao? Vậy thì dễ thôi. Chính vì muốn gặp ông ấy mà tôi xin nghỉ phép đấy. Sự thật là ông ấy đã mời chúng tôi họp mặt để kỷ niệm chuyến thám sát thành công của chúng tôi ở cao nguyên Nam Mỹ ba năm về trước. 
- Tuyệt diệu!... Ông McArdle cười giòn, xoa hai tay vào nhau, đôi mắt reo vui sau cặp kính... Vậy thì ông chắc chắn sẽ moi được ý kiến của giáo sư Challenger. Ý kiến của những người khác chỉ là hoang tưởng mơ mộng, nhưng giáo sư đã đúng nhiều lần và hy vọng lần này lại đúng. 
- Hỏi ông ta về cái gì? Ý kiến của ông ấy đã đúng về chuyện gì?
- Ông chưa đọc lá thư của giáo sư trên tờ Times hôm nay à? Đề tài “Những khả năng khoa học.” 
- Chưa đọc. 
McArdle cúi xuống lượm cho tôi tờ báo trên sàn. 
- Làm ơn đọc lớn lên... Ông vừa đưa cho tôi vừa chỉ vào cột báo... Tôi muốn nghe lại lá thư vì tôi chưa hiểu rõ giáo sư muốn nói gì. 
Đây là lá thư tôi đọc cho Trưởng ban biên lập tin tức của tờ Gazette:
"Những khả năng khoa học
Thưa ông, tôi đã chăm chú đọc và không được thoải mái, bài báo tự đắc và ngây ngô của ông James Wilson Macphail trên báo của ông, về vấn đề những vạch nhạt nhòa Fraunhofer trong các quang phổ của hành tinh và định tinh. Và ông Macphail đã cho rằng hiện tượng này không nghĩa lý gì. Căn cứ vào nhiều thông tin chuyên sâu hơn, hiện tượng này có khả năng là một biến cố quan trọng sâu rộng đến độ ảnh hưởng đến sự an lạc của mọi người trên hành tinh này... Tôi không hy vọng dùng các thuật ngữ khoa học để diễn tả cho những người chỉ dựa trên những thông tin trong báo chí, hiểu được ý tôi muốn thông báo. Nhưng tôi sẽ cố gắng dùng một hoán dụ thông thường để so sánh với hiện tượng, hợp với tầm hiểu biết của các tác giả không thực tế và độc giả của quí báo."
 

Ông McArdle gục gặp đầu ra chiều tâm đắc: 
- Được lắm! Ông ấy là một hiện tượng, một kỳ quan sống! Ông ấy làm cho chim câu còn đang được mớm sữa mọc lông (1). Ông ấy có thể làm một cộng đồng Quakers đang hành lễ hỗn loạn (2). Hèn chi, mọi người London muốn gặp ông ấy. Tội nghiệp ông ấy bị quấy rầy chỉ vì có bộ óc vĩ đại! Rồi, đọc cái hoán dụ của ông ấy đi. 
Tôi đọc tiếp:
"Giả sử ta cột một chùm những miếng bấc lại với nhau, rồi thả xuống một trong những dòng nước lờ đờ trong Đại Tây Dương. Chùm bấc trôi dật dờ trong dòng nước, ngày này qua ngày khác trong môi trường cả dòng nước. Nếu những miếng bấc có ý thức, có tri giác, chúng ta có thể hình dung ra được là chúng sẽ cho là các điều kiện của môi trường xung quanh chúng vĩnh hằng và ổn định. Nhưng chúng ta có tri thức, biết rằng sẽ có nhiều biến cố xảy ra cho chùm bấc.

Chúng có thể đụng vào một mạn tàu, lưng một con cá voi ngủ, hoặc mắc kẹt trong một đám rong biển. Dù chúng có gặp gì trong cuộc hành trình, cuối cùng chúng sẽ bị sóng hất tung lên vách đá của bán đảo Labrador chẳng hạn. Nhưng những miếng bấc đâu có biết gì về những điều này, mà chỉ biết dật dờ trôi theo dòng và tưởng rằng đại dương là vô hạn và đồng nhất, đâu cũng như đâu. 

Độc giả của ông hiểu được Đại Tây Dương, trong hoán dụ này là đại dương ether (3) của vũ trụ mà chúng ta đang trôi nổi bồng bềnh, và chùm bấc chính là hệ mặt trời của chúng ta. Một thái dương hệ gồm một ngôi sao cấp ba, loe ngoe vài hành tinh xoay quanh vô nghĩa như một cái đuôi cụt. Chúng ta cũng đang trôi nổi lềnh bềnh, trong những điều kiện hàng ngày, về nơi vô định. Rồi ở một nơi nào đó bên lề vũ trụ, một tai họa đen tối sẽ úp chụp xuống chúng ta, đẩy chúng ta vào một dòng thác ether như thác Niagara, hay đẩy chúng ta mắc kẹt vào một vùng Labrador nào đó của vũ trụ. Thật không thể lạc quan một cánh nông cạn, thiếu hiểu biết như ký giả James Wilson Macphatl. Có rất nhiều lý do khiến ta phải nghiêm túc quan tâm đến sự thay đổi trong môi trường vũ trụ, vì nó liên quan tới mạng sống của tất cả chúng ta.
Sự nhạt nhòa của những vằn song song Fraunhofer và sự xê xích của các điểm vạch quang phổ, theo ý tôi, là sự thay đổi rộng khắp trong toàn bộ vũ trụ, nhưng rất vi tế và độc đáo. Ánh sáng từ một hành tinh là ánh sáng phản chiếu từ một mặt trời, ánh sáng từ một định tinh là do tự nó phát ra.

Nhưng trong biến cố này, quang phổ của ánh sáng hành tinh và định tinh đều có độ nhạt và lệch giống nhau. Vậy phải chăng có một sự thay đổi duy nhất xảy ra trên cả các định tinh lẫn hành tinh? Điều này không thể có được. Có thể chỉ bầu khí quyển của trái đất thay đổi? Tuy điều này có khả năng xảy ra, nhưng ta có thể đoan chắc là không phải, vì ta không quan sát thấy gì thay đổi quanh ta, các phân tách hóa học cũng không phát hiện ra thay đổi ấy. Vậy khả năng thứ ba là cái gì? Có thể do sự thay đổi trong môi trường ether dẫn ánh sáng, vốn lấp đầy vũ trụ và bao trùm mọi thiên thể.
Có thể thái dương hệ của chúng ta đang trôi trong một dòng ether lờ đờ, sắp đẩy chúng ta vào một môi trường ether có các đặc tính chúng ta chưa đoán nhận được? Phải có một sự thay đổi ở đâu đó. Phải có xáo trộn nào đó trong vũ trụ, các quang phổ của ta chứng tỏ điều đó. Sự thay đổi có thể gây hậu quả tốt, cũng có thể ảnh hưởng xấu hoặc trung lập. Ta chưa biết chắc được, các nhà quan sát vũ trụ nông cạn cho rằng hiện tượng này chẳng có gì đáng xem xét.
Nhưng đối với người làm khoa học như tôi, một trí thức chân chính, phải nhìn những khả năng trong vũ trụ không thể tính hết được theo quan điểm một triết nhân, sấn sàng đón nhận cái bất ngờ. Thí dụ nhãn tiền là người dân trên đảo Sumatra và vùng lân cận nhất loạt bị một chứng bệnh như nhau. Ai dám khẳng định bệnh này chẳng có liên quan gì đến thay đổi trong vũ trụ? Chẳng qua là người dân chất phác ở đây bị ảnh hưởng trước những người dân Âu châu văn minh hơn, biết bảo vệ sức khỏe hơn thôi. Tôi không bỏ ý định phải nghiên cứu hiện tượng, tôi cũng không đồng ý với dư luận, cứ bỏ lơ nó đi cũng chẳng hại gì, và cũng không đồng ý quan điểm cho rằng mọi thứ đã ở trong tầm tay nhà khoa học.

Trân trọng
George Edward Challenger.
The Briars, Rotherfield.”

- Thật là một bức thư súc tích và gợi ý... Ông McArdle nói với vẻ suy tư, vừa cài điếu thuốc vào cái đót bằng thủy tinh... Ý ông ra sao, ông Malone? 
Thú thật, tôi mù tịt về vấn đề này. Những vằn song song Fraunhofer là gì tôi cũng chẳng biết. Ông McArdle thì vừa nghiên cứu những quang phổ này với nhóm khoa học gia nghiệp dư trong tòa báo. Ông lượm trên bàn giấy hai tờ quang phổ đồ, tôi thấy chúng gồm những dải màu như cái đai mũ của các cầu thủ bóng chày. Ông chỉ cho tôi thấy thông đường viền song song ôm lấy những dải màu từ đỏ sang cam, vàng, lục xanh. chàm, tím. 
- Những vằn đen song song này là vằn Fraunhofer. Những dải màu này chính là ánh sáng. Chiếu bất cứ ánh sáng nào qua một lăng kính ta cũng đều có phổ màu như thế này. Những dải màu chẳng có gì đặc biệt, nhưng chính những vằn song song Fraunhofer mới có ý nghĩa, chúng cho ta biết bản chất của nguồn sáng. Các vằn này hôm nay nhạt nhòa, không sắc nét như tuần trước. Các nhà thiên văn đang tranh luận sôi nổi về nguyên nhân của sự nhòa này. Đây là tấm hình vằn đen Fraunhofer nhạt nhòa, sẽ cho đăng trong số báo ngày mai. Phần lớn công chúng chẳng để ý gì đến chuyện này, nhưng tôi nghĩ, với bức thư của giáo sư Challenger trong tờ Times, quần chúng sẽ tỉnh thức. 
- Và những quang phổ này liên quan tới bệnh ở Sumatra? 
- Không, còn lâu mới xác định được liên hệ giữa xáo trộn trong vũ trụ với bệnh của dân địa phương ấy, nhưng cái ông thần thông này đã chứng tỏ ông ấy biết mình nói gì trong quá khứ. Ở miền xa xôi ấy dân chúng mắc một chứng bệnh kỳ lạ, là sự thực. Điện tín từ Singapore cũng cho biết hải đăng ở Eo Sun đã tắt ngấm và hai tàu thủy đã đâm vào bờ. Dẫu sao, ông phỏng vấn được Challenger về vấn đề này thì rất tốt. Nếu có được ý kiến chính thức của ông ấy, chúng ta có thể đăng một bài vào thứ Hai. 
Tôi đang chậm rãi ra khỏi phòng biên tập của tôi, chú tâm sắp xếp, cân nhắc chuyến công tác của mình thì có ai gọi tôi ở tiền phòng dưới nhà. Đó lả cậu bé điện tín mang thư từ liên lạc từ nhà tôi ở Strentham lên cho tôi.
Cái điện tín của chính người chúng tôi đang nói tới. Nội dung như sau: 

"Malone - 17 Hill Street, Streatham
Mang dưỡng khí tới Challenger."
Mang oxy tới! Cái ông giáo sư có óc hài hước cao độ này, rất có khả năng chơi những trò rắn mắt. Liệu đây có phải là một trò khiến ông có dịp cười như nắc nẻ, mắt híp lại hoặc là ông há miệng cười ha hả, bộ râu quất qua quất lại chẳng để ý gì đến xung quanh? 
Tôi lật qua lật lại cái điện tín trong đầu mà chẳng tìm ra ý nghĩa nghịch ngợm nào. Vậy chắc chắn nó là một lệnh ngắn gọn, tuy rằng hơi bất thường. Lệnh của ông, tôi không thể nào không tuân. Chắc là ông đang làm một thí nghiệm hóa học nào đó cần tới oxy. Thôi, tôi cũng chẳng cần đoán già đoán non làm gì. Cứ việc mang oxy tới là xong. 
Tôi phải chuẩn bị mất gần một giờ mới lên được xe hỏa ở ga Victoria. Tôi lấy vé đến một địa chỉ theo niên giám điện thoại, Oxygen Tube Supply Co. ở phố Oxford. 
Khi bước lên vỉa hè trước công ty, hai thanh niên đang khệ nệ khiêng một chai oxy ra xe. Theo sau hai thanh niên, vừa la rầy vừa điều khiển bằng một giọng the thé, ngạo nghễ, là một ông già. Ông ấy quay lại phía tôi. Những nét khắc khổ, chòm râu dê quen thuộc không thể lầm lẫn được. Đó là ông bạn già khắc tinh của tôi, giáo sư Summerlee.
Ông ấy hét lớn: 

- Ông cũng nhận được cái điện tín ông ta om sòm đòi oxy, phải không? 
Tôi đưa cái điện tín cho giáo sư coi. 
- Lạ quá! Tôi cũng nhận được một cái. Thật là trái khoáy mà tôi cũng phải làm. Ông bạn chúng ta luôn luôn vô lý. Ông ấy cần oxy làm gì mà gấp đến thế. Không thể đợi được nguồn cung cấp thông thường, lại làm mất thời giờ của những người bận rộn hơn ông ấy nhiều. Tại sao ông ấy không đặt hàng trực tiếp nhỉ? 
- Tôi đoán ông ấy cần tức thì. 
- Cứ tạm cho là ông ấy cần gấp đi, nhưng nếu bạn cũng mang đến một bình thì hoang phí quá, bình của tôi là đủ rồi. 
- Nhưng vì lý do nào đó, ông ấy cũng muốn tôi mang chai oxy tới. Tốt nhất là tôi cũng mang tới sẽ an toàn hơn. 
Mặc kệ cho Summerlee cằn nhằn phản đối, tôi cứ mua một bình và cho khuân lên xe để cạnh chai của ông ấy, cùng ra ga. 
Tôi quay lại trả tiền taxi. Gã tài xế rất khó chịu vì tính tiền quá lạm. Tôi quay lại chỗ giáo sư, đang bực tức cãi nhau với hai người khiêng bình oxy, bộ râu dê trắng rung lên vì tức giận. Tôi còn nhớ một người khiêng chai oxy gọi giáo sư là “con vẹt già mất màu,” khiến tài xế của ông ra khỏi xe định đập nhau với họ. Chúng tôi phải cố gắng lắm mới can được một cuộc đánh lộn ngoài đường.
Những chuyện vặt này, lúc đó chỉ như là ngẫu nhiên, chẳng liên quan gì đến chuyện tôi đang thuật đây. Sau này nghĩ lại, tôi mới thấy chúng có liên quan. Người tài xế của giáo sư có vẻ như mới lái, hoặc mất tinh thần trong vụ vừa qua, vì khi lái ra ga ông suýt đụng xe khác hai lần. Tôi cũng nhớ đã cùng giáo sư nhận xét là tiêu chuẩn tài xế London đã xuống cấp. Khi xe đến cạnh một đám đông ở một khu buôn bán, tôi được chứng kiến cảnh người chạy loạn xạ, người tài xế ẩu tả, và một người nhảy được lên lề, giơ gậy hăm dọa trên đầu chúng tôi. Cũng may là tôi đẩy được ông ấy đi và chúng tôi qua được công viên an toàn. Những sự việc nho nhỏ này làm tâm trí tôi không yên, cử chỉ của người đồng hành với tôi cũng nôn nóng, tỏ ra ông cũng mất kiên nhẫn. 

Chúng tôi chỉ lấy lại được sự vui vẻ khi thấy đức ông John Roxton đang đợl chúng tôi trên sân ga. Thân hình cao, gầy của ông mặc bộ len vàng sậm nổi bật lên. Bộ mặt tinh anh, đôi mắt sáng quắc, dữ tợn không thể quên được, cũng ánh lên những nét vui nhộn khi thấy chúng tôi tới. Mái tóc hung đỏ của ông hơi điểm bạc, cặp chân mày hằn sâu hơn vì thời gian. Nhưng những nét khác của ông vẫn là những nét của Lord Roxton, bạn của chúng tôi tự thuở nào. Ông vừa tiến đến chỗ chúng tôi vừa chào. 
- Chào ông giáo sư, chào anh bạn trẻ! Ông gầm lên thật sự khi thấy người phu khuân vác đẩy cái xe chở bình oxy ở sau chúng tôi... Các ông cũng mang theo oxy à. Của tôi đã để trong toa. Không biết ông bạn già của chúng ta định làm gì với chúng đây? 
- Ông đã đọc bức thư của ông ấy trên tờ Times chưa? 
- Về chuyện gì vậy? 
- Linh tinh, chẳng nghĩa lý gì! Giáo sư Summelee nói xẵng. 
Tôi nói: 
- Nếu không lầm thì chuyện liên quan đến các chai oxy này đây. 
- Linh tinh, vô lý! Ông giáo sư hét lên một lần nữa và làm chi cần lớn tiếng. 
Chúng tôi đã vào toa hạng nhất hút thuốc, và ông giáo sư đã đến lèn cái píp đen ngắn, tôi chỉ e nó sẽ làm cháy xém cái mũi cong dài hung hăng của ông thôi. Ông ấy nói oang oang: 
- Ông bạn Challenger rất thông minh, có điên mới không công nhận điều ấy. Cứ trông cái mũ của ông ấy thì biết, có gần hai kí lô óc ở trong ấy đấy, một bộ máy vĩ đại, chạy êm ru, sản xuất ra những công trình đẹp gọn. Cứ chỉ cho tôi biết nhà máy, tôi sẽ nói cho các ông biết cỗ máy. Nhưng ông ta bẩm sinh chỉ là một ông lang băm. Các ông đã từng nghe tôi nói thẳng vào mặt ông ta như vậy. Hừ! Một ông lang băm cũng tìm đủ mánh lới nhảy lên sân khấu cho nổi tiếng. Vì mọi chuyện đang tốt đẹp, êm ả thì ông bạn Challenger của chúng ta tìm được dịp buộc công chúng nói đến ông ta. Các bạn không thể mường tượng ra được ông ta thật sự tin là có chuyện vô lý như có xáo trộn trong môi trường ether, đe dọa sinh tồn của nhân loại. Các ông có thể tin một chuyện đầu Ngô đuôi Sở như vậy không?
Ông giáo sư ngồi như một con quạ già, lông trắng phau, ngồi cười lớn đến rúng động thân mình.
Một cơn giận lạnh tanh bủa chụp lấy tôi khi giáo sư Summerlee nói về bạn mình như vậy. Người bạn chung đã giúp chúng tôi có được chút tiếng tăm và đã cho chúng tôi những giây phút tuyệt vời không mấy ai đã được hưởng. Tôi đã mở miệng định lên tiếng phản đối thì đức ông John đã nhanh miệng hơn tôi. Ông nghiêm khắc nói: 

- Ông đã tranh luận với trưởng lão Challenger một lần và đã thua, trắng đen đã rõ trong mười giây. Ông ấy vượt xa trình độ của ông nhiều. Cách đối phó tốt nhất với ông ấy là lỉnh xa ông ta ra, để ông ta yên, giáo sư Summerlee ạ. 
Tôi cũng tiếp lời: 
- Ngoài ra, ông ấy cũng là người bạn tốt với tất cả ba chúng ta. Dù lỗi lầm của ông ấy có là gì đi nữa, thì ông ấy cũng là người chính trực như một cây trúc. Tôi cũng tin là ông ấy chưa hề nói gì sau lưng bạn bè. 
- Bạn nói hay lắm, ông bạn vong niên ạ... Đức ông mỉm một nụ cười hiền rồi vỗ vai giáo sư Summerlee... Thôi, ông giáo sư, chúng ta không cãi nhau vào lúc này nữa. Chúng ta đã cùng thấy với nhau nhiều rồi mà. Nhưng xin ông đừng có thái độ như thế này nữa, trước mặt người bạn già của chúng ta mà chúng ta yếu hơn về mọi mặt. 
Nhưng giáo sư Summerlee vẫn không có vẻ gì là khoan nhượng. Ông bập píp và nhả ra những cuộn khói giận dữ. 
- Về phần ông, đức ông John Roxton ạ, ý kiến của ông về các vấn đề khoa học, chỉ như một viên đạn súng săn nhờ văng ra nhiều mảnh mà trúng con mồi thôi. Tôi có óc suy luận và suy luận theo cách của tôi. Chỉ vì tin tưởng, tôi đã bị lầm lẫn một lần, bởi vậy, tôi không thể chấp nhận những gì ông ta nêu lên mà không phê phán. Chúng ta có cần một giáo hoàng trong khoa học với quyền năng bất khả ngộ, cứ phán ra rồi độc đoán bắt đại chúng hiền lành tin theo. Cho ông hay, tôi có cái đầu, tôi phải dùng nó, tôi không hợm hĩnh, theo đuôi người ta như một tên nô lệ. Nếu thích thì ông cứ tin vào ether và những vằn Flaunhofer trên quang phổ, nhưng đừng có bắt một người cao niên hơn, khôn ngoan hơn như tôi, chia sẻ quan điểm điên rồ đó với ông. Chẳng có bằng chứng nào là ether đã ảnh hưởng đến mức độ ông ta nói. Nếu ether có ảnh hưởng đến sức khỏe con người, thì chính chúng ta đã phải bị bệnh rồi. 
Nói đến đây, ông giáo sư phá lên cười đắc thắng vì lý luận của mình, rồi tiếp: 
- Vâng, thưa ông, chúng ta đã không còn là những con người bình thường, không còn bình an mà ngồi trên toa tàu này bàn chuyện khoa học. Chúng ta phải đang bị nhiễm độc. Thế các dấu hiệu bị nhiễm độc vì xáo trộn ether vũ trụ đâu? Trả lời tôi đi! Không được tìm cách lẩn trốn. Tôi buộc ông trả lời! 
Tôi càng ngày càng giận và thái độ của giáo sư Summerlee càng ngày càng khó chịu, hung hăng. Tôi nói: 
- Tôi nghĩ rằng, nếu ông biết thêm được nhiều sự kiện thực sự chắc ông sẽ bớt quả quyết về ý kiến của mình. 
Summelee lấy píp khỏi miệng và trừng trừng nhìn tôi lạnh tanh. 
- Làm ơn cho biết ý của ông về những nhận xét chẳng đâu vào đâu của ông ta? 
- Trước khi rời tòa soạn, Trưởng ban biên tập tin tức đã cho tôi biết có điện tín xác nhận dân địa phương ở Sumatra đều bị nhất loạt một chứng bệnh, và hải đăng ở eo Sun đang tắt ngấm. 
- Đúng rồi, cái điên của con người đâu có giới hạn!... Giáo sư Summelee la lên tức giận thật sự... Nếu chấp nhận cái giả thuyết rỗng tuếch của Challenger, thì ông cũng phải thấy ether trong vũ trụ phải là chất đồng nhất ở cả hai phía của trái đất chứ. Có bao giờ ông tin là có thứ ether ở Anh khác với ether ở Sumatra? Chắc ông cho rằng ether ở Kent tốt hơn ether ở Surrey về một vài mặt nào đó. Những người dân thường ngoài giới khoa học rất cả tin và dốt nát. Các ông có thể chấp nhận được ether ở Sumatra, đúng lúc này, độc đến nỗi làm mọi người tê liệt, còn ở đây chúng ta chẳng hề hấn gì? Cá nhân tôi, tôi còn cảm thấy thân thể khỏe mạnh, tâm hồn quân bình hơn bao giờ hết. 
- Có thể như vậy. Tôi không dám nhận là một nhà khoa học, nhưng tôi có đọc và nghe ở đâu đó là khoa học ở thế hệ này, có thể bị coi là sai lầm ở thế hệ kế tiếp. Vì chúng ta chưa biết nhiều về ether, nên cứ dùng lương tri mà xét, có thể vì các điều kiện ở địa phương, ether đã gây ảnh hưởng ở vùng đó trước, ảnh hưởng đến chúng ta sau. 
- Với "nếu" và "có thể" thì ông chẳng chứng minh được gì cả. Heo có thể bay nhưng chúng có bao giờ bay được đâu...  Summerlee đùng đùng nổi giận... Nói chuyện với các ông không được nữa rồi. Challenger đã nhồi nhét cho các ông những điều vô lý, còn cả hai ông đều không có khả năng suy luận. Thà tôi tranh luận với mấy cái ghế nệm này còn hơn. 
Đức ông John nghiêm sắc mặt nói: 
- Giáo sư Summerlee ạ! Xem ra tác phong của ông chẳng cải tiến được chút nào, từ lần gần nhất tôi hân hạnh gặp ông.
Summerlee cười chua chát trả lời: 
- Các đức ngài như ông không quen nghe sự thật. Chắc ông sẽ bi sức nặng nếu như có ai bảo với ông là, ngoài cái tước vị ra, ông cũng chỉ là dốt nát, mù tịt. 
Đức ông John nói hết sức nghiêm khắc và cứng: 
- Hứa với ông, nếu ông còn trẻ, hẳn ông không dám nói với tôi một cách hỗn hào như thế. 
Giáo sư Summerlee hất cằm lên, chòm râu dê lắc lư. 
- Ngài nên nhớ là, cả đời tôi, dù già hay trẻ, tôi chẳng ngần ngại gì khi nói thẳng ý mình với những kẻ hợm mình dốt nát mà vênh váo. Vâng, thưa ngài, dốt nát mà vênh váo, dù ông có bao nhiêu tước vị mà bọn gia nô của ông phong tặng và được lũ dốt nát chấp nhận. 
Mắt đức ông John tóe lửa một lúc rồi ông chế ngự được cơn giận, ngồi dựa vào ghế, tay khoanh lại, miệng cười chua chát. 
Với tôi, chuyện này thật khủng khiếp, không thể chấp nhận được. Rồi như một đợt sóng, ký ức quá khứ tràn về: tình bạn thắm thiết, những niềm hạnh phúc, những ngày cùng nhau du thám, những chịu đựng, những cố gắng để chiến thắng. Thế mà chúng tôi đi đến nông nỗi này : thóa mạ, lăng nhục lẫn nhau. Rồi đột nhiên tôi khóc, khóc nức nở lớn tiếng, khóc nghẹn ngào không thể kiềm chế và che dấu được. Các bạn tôi nhìn tôi ngỡ ngàng. Tôi phải lấy hai tay che mặt lại. 
- Không sao mà... Tôi cố nói... Chỉ vì hoàn cảnh của chúng ta thảm thương quá. 
Đức ông John nhận xét. 
- Ông bạn trẻ, ông bịnh rồi. Đó mới là trục trặc của ông. Tôi đã thấy bạn hơi lạ thường từ lúc mới gặp. 
Giáo sư Summerlee lên tiếng, vừa lắc đầu: 
- Chính là do tật uống rượu của ông đấy. Cả ba năm nay ông vẫn chưa cải sửa được. Tôi cũng thấy cử chỉ của ông lạ lùng ngay từ lúc mới gặp. Ngài John, ngài không cần phải ái ngại cho ông ấy. Những giọt nước mắt kia chỉ do rượu thôi. Ông ấy chắc đã uống quá nhiều. Tiện thể đây, đức ông ạ, vừa rồi tôi có gọi ông là hợm mình, quả là có hơi quá. Nhưng từ ngữ ấy gợi nhớ chút tài mọn của tôi, vặt vãnh thôi nhưng thú vị lắm. Các ông đã biết tôi là một nha khoa học rất nghiêm khắc. Các ông có tin là tôi đã từng nổi tiếng trong các vườn ươm và trại giống, về bắt chước tiếng và điệu bộ muông thú. Tôi sẽ giúp cho ông giải trí cho qua thời giờ. Các ông có thích tôi bắt chước gà gáy không? 
Đức ông John vẫn còn tức, nói ngay: 
- Không, thưa ông, trò đó không làm vui tôi đâu. 
- Tài bắt chước gà cục tác ngay sau khi đẻ trứng của tôi cũng được coi là trên trung bình đấy. Tôi làm các ông xem thử nhé?
- Không, xin can ông. 
Dù có bị quyết liệt từ chối, giáo sư Summelee cũng để píp xuống và giúp vui chúng tôi bằng một loạt tiếng chim hót, thú vật kêu chẳng ra sao cả, đến nỗi nước mắt của tôi đã thay thế bằng những tiếng cười ha hả rồi cười ngặt nghẽo. Vì tôi ngồi đối diện ngay với giáo sư nhìn thấy, hay đúng hơn nghe thấy ông đang nghiêm trang thật sự đóng vai gà gáy hay con chó con ăng ẳng khi bị nhằm vào đuôi. 
Khi đức ông chuyền cho tôi tờ báo, tôi thấy ghi ở bên lề bằng bút chì:
"Tội nghiệp! Ông ấy mát nặng rồi!"
Vâng, ông ấy có lập dị thật, nhưng những trò ông mới làm cũng có vui và thông minh. 
Trong khi Summerlee tiếp tục diễn trò, đức ông John nghiêng mình về trước kể cho tôi nghe chuyện một con trâu và một ông Hoàng Ấn Độ, và tôi có cảm tưởng là không bao giờ cùng. 
May thay, khi giáo sư Summerlee bắt đầu giọng hót lý như một con yến, đức ông John đang kể đến những tình tiết đỉnh điểm của câu chuyện, thì tàu vào ga Jarvis Brook.
Ở đây cũng có bến xe đi Rotherfield. 

Và kìa giáo sư Challenger đang đợi chúng tôi. Dáng vẻ của ông ấy thật kiêu hãnh. Không có con công hay gà trống tây nào có dáng vẻ kênh kiệu sánh được cái vẻ thong dong tự tin, và nụ cười hiền lành, hạ cố đối với những người quanh ông. Chỉ có vẻ mặt của ông hơi rạng rỡ hơn, vì quan điểm của ông đang thắng thế, là nét thay đổi duy nhất. Cái đầu đã to, vầng trán rộng, với mái tóc ép sát vào da đầu như có vẻ to ra hơn. Bộ râu đen mượt chảy dài xuống, có vẻ ấn tượng hơn, trông như một dòng suối. Đôi mắt xám, trong long lanh, dưới đôi mi bướng bỉnh, ngạo đời cũng thay đổi đôi chút.
Ông ấy bắt tay tôi tạo cho tôi thích thú, kèm nụ cười khích lệ như một thầy hiệu trưởng ban cho một cậu học trò. Ông bắt tay những người khác, giúp họ xách hành lý, lăn bình oxy lên xe. 

Tài xế vẫn là cái ông Austin nghiêm nghị, ít nói. Lần trước tôi tới, thì ông đóng vai quản gia. Chuyến hành trình bằng xe con này qua những đoạn đường bám trên sườn đồi ngoằn ngoèo, cảnh trí rất đẹp. Tôi ngồi trên với tài xế. Ba vị kia ngồi băng sau, tranh cãi sôi nổi. Tôi nghe như họ cùng nói một lượt. Đức ông John đang cố nói chuyện con trâu, đồng thời tôi nghe thấy cả tiếng oang oang của Challenger, giọng khăng khăng của Summerlee, vẫn y hệt như trước đây, khi họ tranh cãi về một vấn đề khoa học. 
Thình lình, Austin nghiêng bộ mặt ngăm đen về phía tôi, mắt không rời khỏi mặt đường: 
- Tôi đã được thông báo cho nghỉ việc, ông ạ. 
- Trời ơi, thật sao? 
Mọi sự hôm nay đều có vẻ kỳ cục. Mọi người đều nói đến các chuyện kỳ cục, bất ngờ. Giống như trong một cơn mơ. 
Austin nói trong hồi tưởng: 
- Đây là lần thứ bốn mươi bảy ông ấy cho tôi nghỉ việc. 
- Khi nào ông đi? Tôi hỏi để thăm dò tình hình nhà giáo sư hoặc có được giải thích rõ hơn. 
- Tôi sẽ không đi.
Austin nói giọng cương quyết. 

Thế rồi chuyện đối thoại của chúng tôi như ngưng lại. Rồi thình lình Austin lại tiếp tục. 
- Nếu tôi phải đi, ai sẽ săn sóc ông ấy? (hất hất đầu về phía chủ). 
- Thì một người khác.
Tôi trả lời cho có. 

- Không có ai khác đâu. Không ai có thể ở đây được một tuần. Nếu tôi ra đi, nhà này sẽ đổ sụm như một đồng hồ đứt dây cót. Tôi nói chuyện với ông, vì là bạn giáo sư và cần phải biết. Nếu tôi phải nghe lời giáo sư và nghỉ việc... tôi không nỡ. Ông và bà ấy sẽ bất lực như hai đứa trẻ bị trùm trong một cái chăn. Tôi chăm lo mọi thứ cho ông ấy, thế mà ông ấy lại bảo cho tôi nghỉ việc. 
Tôi hỏi: 
- Tại sao ông lại nói là không ai ở đây lâu được? 
- Người ta sẽ không hiểu ông ấy, không thông cảm được như tôi. Ông chủ rất thông minh, quá thông minh đến độ huyền hoặc. Tôi nhìn thấu tận đáy lòng ông ấy. Cứ coi chuyện sáng nay ông ấy làm thì rõ. 
- Sáng nay ông ấy làm gì? 
Austin nghiêng qua tôi. 
- Ông ấy cắn chân cô quản gia. Ông thì thầm nho nhỏ. 
- Cắn cô ấy? 
- Vâng, thưa ông. Cắn cô ta vào chân, chính mắt tôi trông thấy cô ta chạy như gió, qua cái cổng cũ ra khỏi nhà. 
- Đẹp mặt chưa? 
- Vâng, ông có thể nói như vậy, nếu ông thấy được một chút cảnh đó. Ông ấy không làm bạn với hàng xóm. Vài người ở đây cho rằng chỉ khi nào ông ấy chán những con quái vật mà ông đã viết về chúng, thì ông ấy mới biến nơi đây thành một tổ ấm gia đinh. Mái ấm thật sự cho ông thầy, vì ông thầy không hòa hợp được thật sự vào một nhóm nào cả. Nhưng tôi đã giúp việc cho ông ấy mười năm rồi, và tôi thích ông ấy, ông ấy là một vĩ nhân. Tôi lấy làm vinh dự được giúp việc cho ông ấy. Đôi khi ông ấy có làm những trò độc ác. Giờ thì xin ông hãy coi cái bảng kia kìa, ông có thể gọi đó là truyền thống hiếu khách được không? Ông cố mà đọc lấy. 
Chiếc xe đang ở tốc độ chậm nhất, đang ì ạch leo một con dốc cao và ngoằn ngoèo. Ở một góc hàng rào cây xanh cắt tỉa bằng phẳng, nhô lên một cái bảng cảnh báo.
Đúng như Austin đã nói, cái bảng rất dễ đọc vì cái bảng vừa ít chữ vừa bắt mắt.

CẢNH BÁO
Không tiếp: khách thăm, báo chí, ăn mày. 
G. E. Challenger 
- Không, cái câu ấy không có nhân tính... Austin vừa nói vừa ngước mắt lên nhìn cái bảng đáng tội nghiệp... Xin lỗi ông, hôm nay tôi nói hơi nhiều, nhưng có nói ra được tôi mới nhẹ nhõm. Ông ấy có thể cho tôi nghỉ việc khi ông ấy buồn. Nhưng tôi không ra khỏi nhà. Thật rõ ràng, ông ấy là chủ, tôi là người giúp việc và tôi mong như vậy cho hết kiếp này. 
Chúng tôi đã qua hai trụ cổng trắng và cái đường vòng xe vào cổng, hai bên viền những bụi hoa. Phía trong là ngôi nhà gạch, nổi bật lên giữa những công trình gỗ xung quanh.
Nhà có vẻ ấm cúng và sạch. 

Bà Challenger người nhỏ nhắn dong dỏng cao, luôn tươi cười, đứng trước cửa đã mở lộng chào đón chúng tôi.
Challenger ra khỏi xe, nói với bà ấy: 

- Cưng à, hôm nay chúng ta có khách. Hơi bất thường phải không nào? Có mất mát gì đâu giữa chúng ta và những người hàng xóm. Nếu họ muốn bỏ thuốc chuột trong giỏ bánh. 
Bà ấy la lên, vừa khóc vừa cười, nói: 
- Anh nói gì mà khủng khiếp quá. Anh George hay gây lộn với hàng xóm. Chúng tôi chẳng có bạn nào ở vùng này cả. 
- Không tiếp bạn để dồn hết chú ý vào chăm sóc bà xã tôi, người không ai sánh kịp.
Ông vừa nói vừa đưa cánh tay ngắn, mập quàng lấy eo vợ. 

Một con khỉ đột và một con linh dương. Đó là hình ảnh của hai ông bà Challenger. 
- Thôi đi ông, khách đi đường đã mệt. Phải làm cơm trưa ngay. - Cô Sarah đã về chưa? 
Bà chủ lắc đầu buồn bã. 
Ông giáo cười lớn, tay vuốt lâu ra vẻ kẻ cả. Ông gọi lớn: 
- Austin, cất xe xong, làm ơn giúp bà ấy một tay dọn cơm. Rồi! Mời các ông sang phòng làm việc, tôi có một hai chuyện cần nói với các ông gấp.

Hết
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close
This is the lightbox content. Close