Thông tin truyện
Đọc truyện
Serve 1
Hắn nhìn dòng suối một lát với vẻ mặt u buồn và trầm ngâm. Sau đó hắn quay nhìn tôi, những xúc cảm trên mặt hắn biến nhanh tựa giấc mơ. Mặt hắn nhõng nhẽo, nhợt nhạt như vẻ mặt của một tử thi chết đói. Mắt hắn đỏ ngầu. Tôi có thể nhìn thấy những chiếc răng sắc, nhỏ lộ giữa đôi môi xám ngoét của hắn. - Tao đang đói... Đột nhiên hắn nói... Tao sẽ giết và ăn ruột của mày, gã câu cá bé nhỏ ạ. Mày nghĩ gì về điều đó? - Đừng!... Tôi cố gắng nói... Làm ơn đừng!... nhưng chẳng thể thốt nên lời. Hắn muốn thực hiện lời nói, tôi hiểu. Rõ ràng hắn muốn ăn thịt tôi. - Tao chỉ quá đói... Hắn nói, nóng nảy và bực dọc... Còn mày thì không thiết sống nếu bà mẹ yêu quí không còn trên cõi đời. Dẫu sao hãy nhớ lời tao. Bởi vì ba mày cũng chỉ là loài người, chẳng chóng thì chầy ông ta cũng tìm cho mình một nấm mồ. Tin tao đi. Và nếu mày là người duy nhất còn lại thì đích thị mày là kẻ thừa trên thế gian này. Tao sẽ cứu mày ra khỏi nỗi nhọc nhằn và bất hạnh ấy. Như thế, mày sẽ lên thiên đường. Đồng ý đi, những linh hồn bị giết bao giờ cũng được an nghỉ ở thiên đường. Cả mày lẫn tao sẽ phục vụ Chúa ngay trong chiều nay, Gary. Điều ấy nghe không ổn sao? Bàn tay dài tái xanh của hẵn vươn về phía tôi mà không nghĩ xem tôi sẽ phản ứng ra sao. Tôi mở nắp giỏ cá, thò tay xuống tận đáy, lấy ngay con cá chúa tôi bắt được đầu tiên, con cá mà lẽ ra tôi phải biết thỏa mãn với nó. Đưa con cá về phía hắn, những ngón tay của tôi đặt trên bụng con cá, nơi tôi đã móc hết ruột của nó theo kiểu người đàn ông vận đồ đen dọa móc ruột tôi. Đôi mắt cá lấp lánh nhìn tôi mờ đục gợi tôi nhớ lại chiếc nhẫn cưới của mẹ. Và ngay lúc ấy, tôi thấy mẹ nằm trong quan tài, và thấy ánh nắng chiếu trên những bó hoa cưới và tôi hiểu đấy là sự thực - mẹ đã bị Ong đốt. Mẹ đã khuỵu xuống trong bầu không khí ấm áp, thơm nức mùi bánh mì trong nhà bếp và Candy Bill liếm những giọt nước mắt từ đôi má sưng vù của mẹ, người đang hấp hối. - Con cá lớn thật!... Gã đàn ông gào lên bằng giọng tham lam và ngắc ngứ... Ồ, môột coon caáa lơớn!. Hắn chụp con cá từ tay tôi, đút tọt vào cái mồm há to hơn bất kỳ mồm của người nào khác. Nhiều năm sau, khi sáu mươi lăm tuổi (tôi nhớ là mình sáu lăm bởi mùa hè năm ấy tôi không còn đi dạy nữa mà về hưu) tôi đi thăm bể nuôi cá ở Boston và đã nhìn thấy một con cá mập. Miệng của gã đàn ông vận đồ đen đó giống hệt miệng con cá mập khi nó há ra, có khác thì chỉ miệng gã ánh lên màu vàng cam, cùng với màu mắt gã và tôi có cảm giác hơi nóng phả ra từ nó giống như khi củi khô bắt lửa rừng rực tạo nên một luồng khí nóng, bất thình lình thoát ra từ bếp lò tạt vào mặt ta. Tôi đã không thể tưởng tượng nổi luồng nhiệt ấy, tôi biết mình chẳng thể hình dung và điều ấy chỉ xảy ra trước khi hắn thả cái đầu con cá hồi dài mười chín inch của tôi vào miệng. Tôi thấy vây cá dựng ngược lên, rồi bắt đầu cong lại như thể một mẩu giấy uốn quăn khi bạn đút vào lò đốt rác. Hắn ấn con cá xuống, từ từ như thể nhà ảo thuật đang biểu diễn trò nuốt gươm. Hắn không nhai. Đôi mắt rực lửa của hắn lồi ra như thể minh chứng cho sự cố gắng. Con cá tiếp tục trôi vào, họng hắn phình lên khi con cá bị nuốt xuống và bây giờ hắn bỗng cất tiếng khóc.. Nước mắt hắn đỏ như máu, tím và đặc quánh. Tôi nghĩ chính việc chứng kiến những giọt nước mắt màu ấy, hồn tôi mới nhập trở về thể xác. Tôi không hiểu tại sao lại có hiện tượng ấy nhưng tôi không biết nó đã diễn ra. Tôi lủi nhanh tựa thằng Jack trốn khỏi hộp đồ chơi hình nộm của nó. Tay vẫn cầm cần câu, tôi gập người lại, cúi khom người, bàn tay còn lại rẽ lối qua các bụi cây, chạy lên bờ. Hắn thốt lên tiếng gầm giận dữ và kỳ lạ bởi âm thanh được phát ra từ cái mồm ngoại cỡ của nó Tôi vẫn cúi chạy và chỉ ngoái nhìn trở lại khi đã lên đến bờ. Hắn đuổi theo tôi. Vạt áo phía sau lưng hắn bay phần phật, sợi dây đồng hồ bằng vàng mỏng của hắn lấp lánh trong ánh nắng. Chiếc đuôi cá hãy còn lủng lẳng trên miệng và tôi có thể ngửi thấy mùi thoát ra từ chiếc lò nướng trong họng hắn. Hắn nhào đến tôi, đưa những chiếc vuốt chộp tới. Tôi lẩn trốn dọc theo bờ suối. Chạy khoảng chừng một trăm mét tôi mới mở được miệng và cất tiếng thét, tiếng thét của nỗi sợ hãi, dĩ nhiên. Song đó cũng là tiếng thét của lòng tiếc thương trước cái chết của một người mẹ dịu hiền. Hắn đang đến gần tôi. Tôi có thể nghe tiếng cành cây gãy và tiếng gió vút qua các bụi rậm, song tôi không nhìn trở lại. Tôi cúi thấp đầu, dán mắt nhìn vào những bụi cây và các cành thấp dọc theo bờ suối để mở lối chạy cành nhanh càng tốt. Và cứ mỗi bước chân, tôi thấp thỏm chờ bàn tay của hắn hạ xuống vai, kéo tôi lại và đút vào cổ họng cháy bỏng của hắn. Điều ấy đã không xảy ra. Chạy được khoảng chừng mười phút, nhưng tất nhiên lúc ấy tôi không xác định được và cứ nghĩ mình chạy đã quá lâu, xuyên qua những cành cây tán lá thấp, tôi nhìn thấy chiếc cầu. Vẫn kêu thét, nhưng bây giờ, do hụt hơi nên âm lượng phát ra như thể tiếng nước ấm pha trà bị đun gần cạn, tôi chạy đến bờ dốc thứ hai, cao hơn và bắt đầu bò lên. Được nửa đường, tôi chuyển sang bò. Nhìn qua vai, tôi thấy người đàn ông vận đồ đen gần sát gót chân tôi, khuôn mặt trắng bợt của hắn biểu lộ nỗi căm tức và thèm thuồng. Những giọt nước mắt máu của hắn tung toé trên má và cái mồm cá mập của hắn đang há ra như thể một cái bản lề. - Thằng nhóc câu cá! Hắn gầm gừ rồi leo lên bờ, chộp được chân tôi. Tôi giằng ra, xoay người lại và ném chiếc cần câu vào người hắn. Hắn dễ dàng hất văng đi, nhưng không hiểu sao chiếc cần câu đập vào thân hắn, hắn quỵ gối xuống để bò. Không chậm trễ, tôi vội quay ngược lại, phi nhanh lên đỉnh dốc, tìm cách bám lấy một thanh chống dưới cầu để thoát thân. - Mày không thoát đâu, thằng nhóc!... Hắn gào lên từ phía sau. Giọng hắn đầy giận dữ nhưng cũng nghe như tiếng cười... Tao không đủ no với một con cá hồi! - Để tao yên! Tôi hét trở lại. Nắm chặt lan can cầu, tôi quăng mình lên bằng cú lộn nhào lóng ngóng. Bàn tay tôi dính đầy dằm. Đầu đập mạnh vào thành cầu mạnh đến nỗi khi ngồi trở dậy, tôi thấy hoa mắt. Tôi tiếp tục lăn mấy vòng rồi chuyển sang bò. Tôi loạng choạng đi hết chiếc cầu rồi vấp ngã, cố trấn tĩnh trở lại rồi chạy tiếp. Tôi chạy hết tốc lực mà một chú nhóc chín tuổi có thể, nghĩa là nhanh như gió. Dường như cứ ba hoặc bốn bước, chân tôi mới chạm đất một lần, và bây giờ, với hiểu biết của mình, tôi tin điều ấy là sự thực. Tôi chạy trên vết lún của bánh xe bên phải trên mặt đường, chạy cho đến khi hai bên thái dương đập thình thình và mắt giật giật trong hốc, chạy cho đến khi tôi cảm thấy cơn đau xuất hiện phía bên trái, từ xương sườn lan lên tận nách, chạy cho đến khi tôi có thể nếm được vị máu và vị của chất gì như kim loại trong họng mình. Lúc không thể chạy được nữa, tôi đứng lại và ngoái nhìn, vẫn thở phì phò như chú ngựa vừa trải qua chặng đường phi nước đại. Tôi bị ám ảnh rằng mình sẽ thấy hắn đứng ở đó, ngay bên cạnh trong bộ đồ màu đen bẩn thỉu, sợi dây lấp lánh thò ra ngoài áo trong và không có một sợi lông nào vướng ở đó cả. Nhưng hắn đã bỏ đi. Con đường trải dài về hướng dòng Castle Stream, nằm giữa các đồi thông và linh sam rậm rạp không một bóng người. Nhưng tôi vẫn cảm thấy hắn ở đâu đấy trong cánh rừng, đang nhìn tôi với ánh mắt có thể thiêu rụi cây cỏ; vẫn ngửi thấy mùi diêm tiêu cháy và cả mùi cá nướng phảng phất trong không gian. Tôi quay lại, tập tễnh bước, cố bước đi nhanh đến mức khả năng cơ thể cho phép. Chân tôi bị chuột rút, bàn chân đau đến nỗi sang ngày hôm sau tôi gần như không thể đi lại được. Tôi tiếp tục ngoái lại nhiều lần nữa để khẳng định rằng con đường phía sau vẫn hoang vắng. Nhưng cứ mỗi lần liếc nhìn một cách lo sợ như thế, thay vì làm tôi bớt sợ thì nó lại làm tôi hoang moang hơn. Cánh rừng linh sam trông tối hơn, rậm hơn. Tôi tiếp tục hình dung những gì ẩn sau cành cây chạy dọc theo con đường; những lối mòn chồng chéo của khu rừng, những chiếc bẫy đánh gãy chân, những hẻm núi nhung nhúc vô số loại động vật. Cho đến ngày thứ Bảy năm 1914 ấy, tôi vẫn cho rằng gấu là loài thú tệ hại nhất của khu rừng. Vượt qua chỗ nối giữa con đường rừng với đường Geegan Flat chừng một dặm, tôi thấy ba đang đi về phía tôi huýt sáo bài "Chiếc thùng gỗ sỏi già nua". Ba mang chiếc cần câu có bánh xe xinh xắn mua ở Monkey Ward. Tay kia của ba xách giỏ đựng cá với dải băng thêu chữ "Hiến dâng người" được mẹ đính vào tay cầm từ hồi Dan còn sống. Tôi mải miết đi, chỉ khi nhìn thấy ba, mới bắt đầu chạy trở lại, với kiểu chạy ngất ngưởng do kiệt sức, còn đôi chân loạng choạng như một thuỷ thủ say rượu, ráng hết sức kêu lên: "Ba! ba! ba..." Vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt của ba khi nhận ra tôi là hình ảnh không thể diễn tả, chói sáng nhất trong vô vàn ký ức. Ba thả chiếc cần câu, giỏ đựng cá xuống đường, không liếc nhìn, vội chạy đến chỗ tôi. Trong đời ba, tôi chưa chứng kiến lần nào ông chạy nhanh như vậy. Khi chúng tôi chạy đến bên nhau, một cảm xúc kỳ diệu dâng lên mạnh đến nỗi sự va chạm đã không tước đi tình cảm quí ấy. Tôi ôm choàng lấy ba, mặt đập mạnh vào thắt lưng của ba đến chảy máu mũi. Dĩ nhiên mãi về sau tôi mới biết. Lúc ấy tôi chỉ dang tay, dùng hết sức ôm cứng lấy ba. Tôi ôm và cọ mặt nóng hổi của mình vào bụng ba, bôi bẩn chiếc áo màu xanh đã cũ của ba với máu, nước mắt và dãi mũi. - Gary, chuyện gì vậy? Điều gì đã xảy ra? Con không sao chứ? - Mẹ đã chết!... Tôi nức nở... Con gặp một người đàn ông ở trong rừng, ông ta bảo con rằng mẹ đã chết. Mẹ bị ong cắn, sưng phồng lên như Dan rồi chết! Mẹ đang nằm trên sàn bếp và Candy Bill... liếm nước mm-mắt... trên... trên... "Mắt mẹ" là những chữ cuối cùng mà tôi muốn nói ra nhưng khi ấy lồng ngực co thắt mạnh nên tôi không thể thốt ra được nữa. Nước mắt lại trào ra và gương mặt kinh hoàng lo sợ của ba nhoà thành gương mặt của ba người chồng chéo nhau. Tôi bắt đầu rống lên, không phải giống như một chú nhóc bị đau khi đầu gối bị trầy, mà tựa như con chó tru trong đêm khi phát hiện ra điềm gở nào đó. Ba ôm chặt tôi vào lòng. Song tôi luồn qua, liếc qua vai nhìn trở lại. Tôi muốn biết chắc rằng gã đàn ông mặc đồ đen không đuổi theo nữa. Không có dấu hiệu nào chứng tỏ sự hiện diện của hắn. Con đường hun hút xuyên qua rừng hoàn toàn hoang vắng. Tôi thầm nhủ bất kỳ lí do nào thì mình cũng sẽ vĩnh viễn không đặt chân trở lại con đường đó nữa và lúc bấy giờ tôi nghĩ rằng ân sủng lớn nhất mà Chúa ban cho tạo vật của người trên thế gian này là chẳng thể nào biết được điều gì sẽ xẩy ra. Ý kiến ấy đã biện minh cho việc từ bỏ ý định kia của tôi. Dẫu sao, vào thời khắc đó, tôi đã có cơ hội để nghiệm ra rằng con người chỉ là những thực thể cô đơn. Sau đó, tôi nghĩ về mẹ, người mẹ dịu dàng đã chết của tôi, rồi úp mặt trở lại vào lòng ba và tiếp tục thổn thức. - Gary, nghe ba nói đây này... Ba lên tiếng sau một hồi im lặng. Tôi vẫn tiếp tục khóc. Ba để tôi nức nở một lát rồi lấy tay nâng cằm tôi lên để có thể nhìn thẳng vào mặt, nhưng tôi tránh không nhìn ba. - Mẹ con vẫn bình thường... Ba nói. Ngước nhìn ba qua dòng nước mắt đang chảy tràn xuống má, tôi không tin. - Ba không biết ai là người báo tin sai như vậy hoặc giả đấy là một thằng chó má bẩn thỉu muốn gây thương tổn tâm hồn con, nhưng ba thề trước Chúa là mẹ con vẫn còn khoẻ. - Nhưng... nhưng ông ta đã nói... - Ba không quan tâm đến những gì hắn nói. Ba trở về nhà sớm hơn dự định bởi Eversham không muốn bán bò. Ba nghĩ nếu đi nhanh thì vẫn còn thời gian để câu cá cùng con. Ba đi lấy cần câu và giỏ đựng trong lúc mẹ làm cho chúng ta mấy chiếc bánh nhân mứt. Những chiếc bánh vừa mới nướng của mẹ vẫn đang ấm. Như thế, nửa giờ trước đây mẹ khoẻ, Gary ạ. Và ba đảm bảo rằng chẳng một ai biết được tin gì về mẹ sớm hơn ba... Nhìn qua vai tôi, ba chợt gằn giọng: - Gã đàn ông ấy là ai vậy? Hắn ở đâu? Ba sẽ tìm và tẩn cho hắn một trận.
Chọn chương để xem
Serve 1
Hắn nhìn dòng suối một lát với vẻ mặt u buồn và trầm ngâm. Sau đó hắn quay nhìn tôi, những xúc cảm trên mặt hắn biến nhanh tựa giấc mơ. Mặt hắn nhõng nhẽo, nhợt nhạt như vẻ mặt của một tử thi chết đói. Mắt hắn đỏ ngầu. Tôi có thể nhìn thấy những chiếc răng sắc, nhỏ lộ giữa đôi môi xám ngoét của hắn.
- Tao đang đói... Đột nhiên hắn nói... Tao sẽ giết và ăn ruột của mày, gã câu cá bé nhỏ ạ. Mày nghĩ gì về điều đó?
- Đừng!... Tôi cố gắng nói... Làm ơn đừng!... nhưng chẳng thể thốt nên lời.
Hắn muốn thực hiện lời nói, tôi hiểu. Rõ ràng hắn muốn ăn thịt tôi.
- Tao chỉ quá đói... Hắn nói, nóng nảy và bực dọc... Còn mày thì không thiết sống nếu bà mẹ yêu quí không còn trên cõi đời. Dẫu sao hãy nhớ lời tao. Bởi vì ba mày cũng chỉ là loài người, chẳng chóng thì chầy ông ta cũng tìm cho mình một nấm mồ. Tin tao đi. Và nếu mày là người duy nhất còn lại thì đích thị mày là kẻ thừa trên thế gian này. Tao sẽ cứu mày ra khỏi nỗi nhọc nhằn và bất hạnh ấy. Như thế, mày sẽ lên thiên đường. Đồng ý đi, những linh hồn bị giết bao giờ cũng được an nghỉ ở thiên đường. Cả mày lẫn tao sẽ phục vụ Chúa ngay trong chiều nay, Gary. Điều ấy nghe không ổn sao?
Bàn tay dài tái xanh của hẵn vươn về phía tôi mà không nghĩ xem tôi sẽ phản ứng ra sao.
Tôi mở nắp giỏ cá, thò tay xuống tận đáy, lấy ngay con cá chúa tôi bắt được đầu tiên, con cá mà lẽ ra tôi phải biết thỏa mãn với nó. Đưa con cá về phía hắn, những ngón tay của tôi đặt trên bụng con cá, nơi tôi đã móc hết ruột của nó theo kiểu người đàn ông vận đồ đen dọa móc ruột tôi. Đôi mắt cá lấp lánh nhìn tôi mờ đục gợi tôi nhớ lại chiếc nhẫn cưới của mẹ. Và ngay lúc ấy, tôi thấy mẹ nằm trong quan tài, và thấy ánh nắng chiếu trên những bó hoa cưới và tôi hiểu đấy là sự thực - mẹ đã bị Ong đốt. Mẹ đã khuỵu xuống trong bầu không khí ấm áp, thơm nức mùi bánh mì trong nhà bếp và Candy Bill liếm những giọt nước mắt từ đôi má sưng vù của mẹ, người đang hấp hối.
- Con cá lớn thật!... Gã đàn ông gào lên bằng giọng tham lam và ngắc ngứ... Ồ, môột coon caáa lơớn!.
Hắn chụp con cá từ tay tôi, đút tọt vào cái mồm há to hơn bất kỳ mồm của người nào khác. Nhiều năm sau, khi sáu mươi lăm tuổi (tôi nhớ là mình sáu lăm bởi mùa hè năm ấy tôi không còn đi dạy nữa mà về hưu) tôi đi thăm bể nuôi cá ở Boston và đã nhìn thấy một con cá mập. Miệng của gã đàn ông vận đồ đen đó giống hệt miệng con cá mập khi nó há ra, có khác thì chỉ miệng gã ánh lên màu vàng cam, cùng với màu mắt gã và tôi có cảm giác hơi nóng phả ra từ nó giống như khi củi khô bắt lửa rừng rực tạo nên một luồng khí nóng, bất thình lình thoát ra từ bếp lò tạt vào mặt ta. Tôi đã không thể tưởng tượng nổi luồng nhiệt ấy, tôi biết mình chẳng thể hình dung và điều ấy chỉ xảy ra trước khi hắn thả cái đầu con cá hồi dài mười chín inch của tôi vào miệng. Tôi thấy vây cá dựng ngược lên, rồi bắt đầu cong lại như thể một mẩu giấy uốn quăn khi bạn đút vào lò đốt rác.
Hắn ấn con cá xuống, từ từ như thể nhà ảo thuật đang biểu diễn trò nuốt gươm. Hắn không nhai. Đôi mắt rực lửa của hắn lồi ra như thể minh chứng cho sự cố gắng. Con cá tiếp tục trôi vào, họng hắn phình lên khi con cá bị nuốt xuống và bây giờ hắn bỗng cất tiếng khóc.. Nước mắt hắn đỏ như máu, tím và đặc quánh.
Tôi nghĩ chính việc chứng kiến những giọt nước mắt màu ấy, hồn tôi mới nhập trở về thể xác. Tôi không hiểu tại sao lại có hiện tượng ấy nhưng tôi không biết nó đã diễn ra. Tôi lủi nhanh tựa thằng Jack trốn khỏi hộp đồ chơi hình nộm của nó. Tay vẫn cầm cần câu, tôi gập người lại, cúi khom người, bàn tay còn lại rẽ lối qua các bụi cây, chạy lên bờ.
Hắn thốt lên tiếng gầm giận dữ và kỳ lạ bởi âm thanh được phát ra từ cái mồm ngoại cỡ của nó
Tôi vẫn cúi chạy và chỉ ngoái nhìn trở lại khi đã lên đến bờ.
Hắn đuổi theo tôi. Vạt áo phía sau lưng hắn bay phần phật, sợi dây đồng hồ bằng vàng mỏng của hắn lấp lánh trong ánh nắng. Chiếc đuôi cá hãy còn lủng lẳng trên miệng và tôi có thể ngửi thấy mùi thoát ra từ chiếc lò nướng trong họng hắn.
Hắn nhào đến tôi, đưa những chiếc vuốt chộp tới. Tôi lẩn trốn dọc theo bờ suối. Chạy khoảng chừng một trăm mét tôi mới mở được miệng và cất tiếng thét, tiếng thét của nỗi sợ hãi, dĩ nhiên. Song đó cũng là tiếng thét của lòng tiếc thương trước cái chết của một người mẹ dịu hiền.
Hắn đang đến gần tôi. Tôi có thể nghe tiếng cành cây gãy và tiếng gió vút qua các bụi rậm, song tôi không nhìn trở lại. Tôi cúi thấp đầu, dán mắt nhìn vào những bụi cây và các cành thấp dọc theo bờ suối để mở lối chạy cành nhanh càng tốt. Và cứ mỗi bước chân, tôi thấp thỏm chờ bàn tay của hắn hạ xuống vai, kéo tôi lại và đút vào cổ họng cháy bỏng của hắn.
Điều ấy đã không xảy ra.
Chạy được khoảng chừng mười phút, nhưng tất nhiên lúc ấy tôi không xác định được và cứ nghĩ mình chạy đã quá lâu, xuyên qua những cành cây tán lá thấp, tôi nhìn thấy chiếc cầu.
Vẫn kêu thét, nhưng bây giờ, do hụt hơi nên âm lượng phát ra như thể tiếng nước ấm pha trà bị đun gần cạn, tôi chạy đến bờ dốc thứ hai, cao hơn và bắt đầu bò lên.
Được nửa đường, tôi chuyển sang bò. Nhìn qua vai, tôi thấy người đàn ông vận đồ đen gần sát gót chân tôi, khuôn mặt trắng bợt của hắn biểu lộ nỗi căm tức và thèm thuồng. Những giọt nước mắt máu của hắn tung toé trên má và cái mồm cá mập của hắn đang há ra như thể một cái bản lề.
- Thằng nhóc câu cá!
Hắn gầm gừ rồi leo lên bờ, chộp được chân tôi. Tôi giằng ra, xoay người lại và ném chiếc cần câu vào người hắn. Hắn dễ dàng hất văng đi, nhưng không hiểu sao chiếc cần câu đập vào thân hắn, hắn quỵ gối xuống để bò. Không chậm trễ, tôi vội quay ngược lại, phi nhanh lên đỉnh dốc, tìm cách bám lấy một thanh chống dưới cầu để thoát thân.
- Mày không thoát đâu, thằng nhóc!... Hắn gào lên từ phía sau. Giọng hắn đầy giận dữ nhưng cũng nghe như tiếng cười... Tao không đủ no với một con cá hồi!
- Để tao yên! Tôi hét trở lại.
Nắm chặt lan can cầu, tôi quăng mình lên bằng cú lộn nhào lóng ngóng. Bàn tay tôi dính đầy dằm. Đầu đập mạnh vào thành cầu mạnh đến nỗi khi ngồi trở dậy, tôi thấy hoa mắt. Tôi tiếp tục lăn mấy vòng rồi chuyển sang bò. Tôi loạng choạng đi hết chiếc cầu rồi vấp ngã, cố trấn tĩnh trở lại rồi chạy tiếp. Tôi chạy hết tốc lực mà một chú nhóc chín tuổi có thể, nghĩa là nhanh như gió. Dường như cứ ba hoặc bốn bước, chân tôi mới chạm đất một lần, và bây giờ, với hiểu biết của mình, tôi tin điều ấy là sự thực. Tôi chạy trên vết lún của bánh xe bên phải trên mặt đường, chạy cho đến khi hai bên thái dương đập thình thình và mắt giật giật trong hốc, chạy cho đến khi tôi cảm thấy cơn đau xuất hiện phía bên trái, từ xương sườn lan lên tận nách, chạy cho đến khi tôi có thể nếm được vị máu và vị của chất gì như kim loại trong họng mình.
Lúc không thể chạy được nữa, tôi đứng lại và ngoái nhìn, vẫn thở phì phò như chú ngựa vừa trải qua chặng đường phi nước đại. Tôi bị ám ảnh rằng mình sẽ thấy hắn đứng ở đó, ngay bên cạnh trong bộ đồ màu đen bẩn thỉu, sợi dây lấp lánh thò ra ngoài áo trong và không có một sợi lông nào vướng ở đó cả.
Nhưng hắn đã bỏ đi.
Con đường trải dài về hướng dòng Castle Stream, nằm giữa các đồi thông và linh sam rậm rạp không một bóng người. Nhưng tôi vẫn cảm thấy hắn ở đâu đấy trong cánh rừng, đang nhìn tôi với ánh mắt có thể thiêu rụi cây cỏ; vẫn ngửi thấy mùi diêm tiêu cháy và cả mùi cá nướng phảng phất trong không gian.
Tôi quay lại, tập tễnh bước, cố bước đi nhanh đến mức khả năng cơ thể cho phép. Chân tôi bị chuột rút, bàn chân đau đến nỗi sang ngày hôm sau tôi gần như không thể đi lại được. Tôi tiếp tục ngoái lại nhiều lần nữa để khẳng định rằng con đường phía sau vẫn hoang vắng. Nhưng cứ mỗi lần liếc nhìn một cách lo sợ như thế, thay vì làm tôi bớt sợ thì nó lại làm tôi hoang moang hơn. Cánh rừng linh sam trông tối hơn, rậm hơn. Tôi tiếp tục hình dung những gì ẩn sau cành cây chạy dọc theo con đường; những lối mòn chồng chéo của khu rừng, những chiếc bẫy đánh gãy chân, những hẻm núi nhung nhúc vô số loại động vật. Cho đến ngày thứ Bảy năm 1914 ấy, tôi vẫn cho rằng gấu là loài thú tệ hại nhất của khu rừng.
Vượt qua chỗ nối giữa con đường rừng với đường Geegan Flat chừng một dặm, tôi thấy ba đang đi về phía tôi huýt sáo bài "Chiếc thùng gỗ sỏi già nua". Ba mang chiếc cần câu có bánh xe xinh xắn mua ở Monkey Ward. Tay kia của ba xách giỏ đựng cá với dải băng thêu chữ "Hiến dâng người" được mẹ đính vào tay cầm từ hồi Dan còn sống. Tôi mải miết đi, chỉ khi nhìn thấy ba, mới bắt đầu chạy trở lại, với kiểu chạy ngất ngưởng do kiệt sức, còn đôi chân loạng choạng như một thuỷ thủ say rượu, ráng hết sức kêu lên: "Ba! ba! ba..."
Vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt của ba khi nhận ra tôi là hình ảnh không thể diễn tả, chói sáng nhất trong vô vàn ký ức. Ba thả chiếc cần câu, giỏ đựng cá xuống đường, không liếc nhìn, vội chạy đến chỗ tôi. Trong đời ba, tôi chưa chứng kiến lần nào ông chạy nhanh như vậy. Khi chúng tôi chạy đến bên nhau, một cảm xúc kỳ diệu dâng lên mạnh đến nỗi sự va chạm đã không tước đi tình cảm quí ấy. Tôi ôm choàng lấy ba, mặt đập mạnh vào thắt lưng của ba đến chảy máu mũi. Dĩ nhiên mãi về sau tôi mới biết. Lúc ấy tôi chỉ dang tay, dùng hết sức ôm cứng lấy ba. Tôi ôm và cọ mặt nóng hổi của mình vào bụng ba, bôi bẩn chiếc áo màu xanh đã cũ của ba với máu, nước mắt và dãi mũi.
- Gary, chuyện gì vậy? Điều gì đã xảy ra? Con không sao chứ?
- Mẹ đã chết!... Tôi nức nở... Con gặp một người đàn ông ở trong rừng, ông ta bảo con rằng mẹ đã chết. Mẹ bị ong cắn, sưng phồng lên như Dan rồi chết! Mẹ đang nằm trên sàn bếp và Candy Bill... liếm nước mm-mắt... trên... trên...
"Mắt mẹ" là những chữ cuối cùng mà tôi muốn nói ra nhưng khi ấy lồng ngực co thắt mạnh nên tôi không thể thốt ra được nữa. Nước mắt lại trào ra và gương mặt kinh hoàng lo sợ của ba nhoà thành gương mặt của ba người chồng chéo nhau. Tôi bắt đầu rống lên, không phải giống như một chú nhóc bị đau khi đầu gối bị trầy, mà tựa như con chó tru trong đêm khi phát hiện ra điềm gở nào đó.
Ba ôm chặt tôi vào lòng. Song tôi luồn qua, liếc qua vai nhìn trở lại. Tôi muốn biết chắc rằng gã đàn ông mặc đồ đen không đuổi theo nữa. Không có dấu hiệu nào chứng tỏ sự hiện diện của hắn. Con đường hun hút xuyên qua rừng hoàn toàn hoang vắng. Tôi thầm nhủ bất kỳ lí do nào thì mình cũng sẽ vĩnh viễn không đặt chân trở lại con đường đó nữa và lúc bấy giờ tôi nghĩ rằng ân sủng lớn nhất mà Chúa ban cho tạo vật của người trên thế gian này là chẳng thể nào biết được điều gì sẽ xẩy ra. Ý kiến ấy đã biện minh cho việc từ bỏ ý định kia của tôi. Dẫu sao, vào thời khắc đó, tôi đã có cơ hội để nghiệm ra rằng con người chỉ là những thực thể cô đơn.
Sau đó, tôi nghĩ về mẹ, người mẹ dịu dàng đã chết của tôi, rồi úp mặt trở lại vào lòng ba và tiếp tục thổn thức.
- Gary, nghe ba nói đây này... Ba lên tiếng sau một hồi im lặng.
Tôi vẫn tiếp tục khóc.
Ba để tôi nức nở một lát rồi lấy tay nâng cằm tôi lên để có thể nhìn thẳng vào mặt, nhưng tôi tránh không nhìn ba.
- Mẹ con vẫn bình thường... Ba nói.
Ngước nhìn ba qua dòng nước mắt đang chảy tràn xuống má, tôi không tin.
- Ba không biết ai là người báo tin sai như vậy hoặc giả đấy là một thằng chó má bẩn thỉu muốn gây thương tổn tâm hồn con, nhưng ba thề trước Chúa là mẹ con vẫn còn khoẻ.
- Nhưng... nhưng ông ta đã nói...
- Ba không quan tâm đến những gì hắn nói. Ba trở về nhà sớm hơn dự định bởi Eversham không muốn bán bò. Ba nghĩ nếu đi nhanh thì vẫn còn thời gian để câu cá cùng con. Ba đi lấy cần câu và giỏ đựng trong lúc mẹ làm cho chúng ta mấy chiếc bánh nhân mứt. Những chiếc bánh vừa mới nướng của mẹ vẫn đang ấm. Như thế, nửa giờ trước đây mẹ khoẻ, Gary ạ. Và ba đảm bảo rằng chẳng một ai biết được tin gì về mẹ sớm hơn ba...
Nhìn qua vai tôi, ba chợt gằn giọng:
- Gã đàn ông ấy là ai vậy? Hắn ở đâu? Ba sẽ tìm và tẩn cho hắn một trận.
- Tao đang đói... Đột nhiên hắn nói... Tao sẽ giết và ăn ruột của mày, gã câu cá bé nhỏ ạ. Mày nghĩ gì về điều đó?
- Đừng!... Tôi cố gắng nói... Làm ơn đừng!... nhưng chẳng thể thốt nên lời.
Hắn muốn thực hiện lời nói, tôi hiểu. Rõ ràng hắn muốn ăn thịt tôi.
- Tao chỉ quá đói... Hắn nói, nóng nảy và bực dọc... Còn mày thì không thiết sống nếu bà mẹ yêu quí không còn trên cõi đời. Dẫu sao hãy nhớ lời tao. Bởi vì ba mày cũng chỉ là loài người, chẳng chóng thì chầy ông ta cũng tìm cho mình một nấm mồ. Tin tao đi. Và nếu mày là người duy nhất còn lại thì đích thị mày là kẻ thừa trên thế gian này. Tao sẽ cứu mày ra khỏi nỗi nhọc nhằn và bất hạnh ấy. Như thế, mày sẽ lên thiên đường. Đồng ý đi, những linh hồn bị giết bao giờ cũng được an nghỉ ở thiên đường. Cả mày lẫn tao sẽ phục vụ Chúa ngay trong chiều nay, Gary. Điều ấy nghe không ổn sao?
Bàn tay dài tái xanh của hẵn vươn về phía tôi mà không nghĩ xem tôi sẽ phản ứng ra sao.
Tôi mở nắp giỏ cá, thò tay xuống tận đáy, lấy ngay con cá chúa tôi bắt được đầu tiên, con cá mà lẽ ra tôi phải biết thỏa mãn với nó. Đưa con cá về phía hắn, những ngón tay của tôi đặt trên bụng con cá, nơi tôi đã móc hết ruột của nó theo kiểu người đàn ông vận đồ đen dọa móc ruột tôi. Đôi mắt cá lấp lánh nhìn tôi mờ đục gợi tôi nhớ lại chiếc nhẫn cưới của mẹ. Và ngay lúc ấy, tôi thấy mẹ nằm trong quan tài, và thấy ánh nắng chiếu trên những bó hoa cưới và tôi hiểu đấy là sự thực - mẹ đã bị Ong đốt. Mẹ đã khuỵu xuống trong bầu không khí ấm áp, thơm nức mùi bánh mì trong nhà bếp và Candy Bill liếm những giọt nước mắt từ đôi má sưng vù của mẹ, người đang hấp hối.
- Con cá lớn thật!... Gã đàn ông gào lên bằng giọng tham lam và ngắc ngứ... Ồ, môột coon caáa lơớn!.
Hắn chụp con cá từ tay tôi, đút tọt vào cái mồm há to hơn bất kỳ mồm của người nào khác. Nhiều năm sau, khi sáu mươi lăm tuổi (tôi nhớ là mình sáu lăm bởi mùa hè năm ấy tôi không còn đi dạy nữa mà về hưu) tôi đi thăm bể nuôi cá ở Boston và đã nhìn thấy một con cá mập. Miệng của gã đàn ông vận đồ đen đó giống hệt miệng con cá mập khi nó há ra, có khác thì chỉ miệng gã ánh lên màu vàng cam, cùng với màu mắt gã và tôi có cảm giác hơi nóng phả ra từ nó giống như khi củi khô bắt lửa rừng rực tạo nên một luồng khí nóng, bất thình lình thoát ra từ bếp lò tạt vào mặt ta. Tôi đã không thể tưởng tượng nổi luồng nhiệt ấy, tôi biết mình chẳng thể hình dung và điều ấy chỉ xảy ra trước khi hắn thả cái đầu con cá hồi dài mười chín inch của tôi vào miệng. Tôi thấy vây cá dựng ngược lên, rồi bắt đầu cong lại như thể một mẩu giấy uốn quăn khi bạn đút vào lò đốt rác.
Hắn ấn con cá xuống, từ từ như thể nhà ảo thuật đang biểu diễn trò nuốt gươm. Hắn không nhai. Đôi mắt rực lửa của hắn lồi ra như thể minh chứng cho sự cố gắng. Con cá tiếp tục trôi vào, họng hắn phình lên khi con cá bị nuốt xuống và bây giờ hắn bỗng cất tiếng khóc.. Nước mắt hắn đỏ như máu, tím và đặc quánh.
Tôi nghĩ chính việc chứng kiến những giọt nước mắt màu ấy, hồn tôi mới nhập trở về thể xác. Tôi không hiểu tại sao lại có hiện tượng ấy nhưng tôi không biết nó đã diễn ra. Tôi lủi nhanh tựa thằng Jack trốn khỏi hộp đồ chơi hình nộm của nó. Tay vẫn cầm cần câu, tôi gập người lại, cúi khom người, bàn tay còn lại rẽ lối qua các bụi cây, chạy lên bờ.
Hắn thốt lên tiếng gầm giận dữ và kỳ lạ bởi âm thanh được phát ra từ cái mồm ngoại cỡ của nó
Tôi vẫn cúi chạy và chỉ ngoái nhìn trở lại khi đã lên đến bờ.
Hắn đuổi theo tôi. Vạt áo phía sau lưng hắn bay phần phật, sợi dây đồng hồ bằng vàng mỏng của hắn lấp lánh trong ánh nắng. Chiếc đuôi cá hãy còn lủng lẳng trên miệng và tôi có thể ngửi thấy mùi thoát ra từ chiếc lò nướng trong họng hắn.
Hắn nhào đến tôi, đưa những chiếc vuốt chộp tới. Tôi lẩn trốn dọc theo bờ suối. Chạy khoảng chừng một trăm mét tôi mới mở được miệng và cất tiếng thét, tiếng thét của nỗi sợ hãi, dĩ nhiên. Song đó cũng là tiếng thét của lòng tiếc thương trước cái chết của một người mẹ dịu hiền.
Hắn đang đến gần tôi. Tôi có thể nghe tiếng cành cây gãy và tiếng gió vút qua các bụi rậm, song tôi không nhìn trở lại. Tôi cúi thấp đầu, dán mắt nhìn vào những bụi cây và các cành thấp dọc theo bờ suối để mở lối chạy cành nhanh càng tốt. Và cứ mỗi bước chân, tôi thấp thỏm chờ bàn tay của hắn hạ xuống vai, kéo tôi lại và đút vào cổ họng cháy bỏng của hắn.
Điều ấy đã không xảy ra.
Chạy được khoảng chừng mười phút, nhưng tất nhiên lúc ấy tôi không xác định được và cứ nghĩ mình chạy đã quá lâu, xuyên qua những cành cây tán lá thấp, tôi nhìn thấy chiếc cầu.
Vẫn kêu thét, nhưng bây giờ, do hụt hơi nên âm lượng phát ra như thể tiếng nước ấm pha trà bị đun gần cạn, tôi chạy đến bờ dốc thứ hai, cao hơn và bắt đầu bò lên.
Được nửa đường, tôi chuyển sang bò. Nhìn qua vai, tôi thấy người đàn ông vận đồ đen gần sát gót chân tôi, khuôn mặt trắng bợt của hắn biểu lộ nỗi căm tức và thèm thuồng. Những giọt nước mắt máu của hắn tung toé trên má và cái mồm cá mập của hắn đang há ra như thể một cái bản lề.
- Thằng nhóc câu cá!
Hắn gầm gừ rồi leo lên bờ, chộp được chân tôi. Tôi giằng ra, xoay người lại và ném chiếc cần câu vào người hắn. Hắn dễ dàng hất văng đi, nhưng không hiểu sao chiếc cần câu đập vào thân hắn, hắn quỵ gối xuống để bò. Không chậm trễ, tôi vội quay ngược lại, phi nhanh lên đỉnh dốc, tìm cách bám lấy một thanh chống dưới cầu để thoát thân.
- Mày không thoát đâu, thằng nhóc!... Hắn gào lên từ phía sau. Giọng hắn đầy giận dữ nhưng cũng nghe như tiếng cười... Tao không đủ no với một con cá hồi!
- Để tao yên! Tôi hét trở lại.
Nắm chặt lan can cầu, tôi quăng mình lên bằng cú lộn nhào lóng ngóng. Bàn tay tôi dính đầy dằm. Đầu đập mạnh vào thành cầu mạnh đến nỗi khi ngồi trở dậy, tôi thấy hoa mắt. Tôi tiếp tục lăn mấy vòng rồi chuyển sang bò. Tôi loạng choạng đi hết chiếc cầu rồi vấp ngã, cố trấn tĩnh trở lại rồi chạy tiếp. Tôi chạy hết tốc lực mà một chú nhóc chín tuổi có thể, nghĩa là nhanh như gió. Dường như cứ ba hoặc bốn bước, chân tôi mới chạm đất một lần, và bây giờ, với hiểu biết của mình, tôi tin điều ấy là sự thực. Tôi chạy trên vết lún của bánh xe bên phải trên mặt đường, chạy cho đến khi hai bên thái dương đập thình thình và mắt giật giật trong hốc, chạy cho đến khi tôi cảm thấy cơn đau xuất hiện phía bên trái, từ xương sườn lan lên tận nách, chạy cho đến khi tôi có thể nếm được vị máu và vị của chất gì như kim loại trong họng mình.
Lúc không thể chạy được nữa, tôi đứng lại và ngoái nhìn, vẫn thở phì phò như chú ngựa vừa trải qua chặng đường phi nước đại. Tôi bị ám ảnh rằng mình sẽ thấy hắn đứng ở đó, ngay bên cạnh trong bộ đồ màu đen bẩn thỉu, sợi dây lấp lánh thò ra ngoài áo trong và không có một sợi lông nào vướng ở đó cả.
Nhưng hắn đã bỏ đi.
Con đường trải dài về hướng dòng Castle Stream, nằm giữa các đồi thông và linh sam rậm rạp không một bóng người. Nhưng tôi vẫn cảm thấy hắn ở đâu đấy trong cánh rừng, đang nhìn tôi với ánh mắt có thể thiêu rụi cây cỏ; vẫn ngửi thấy mùi diêm tiêu cháy và cả mùi cá nướng phảng phất trong không gian.
Tôi quay lại, tập tễnh bước, cố bước đi nhanh đến mức khả năng cơ thể cho phép. Chân tôi bị chuột rút, bàn chân đau đến nỗi sang ngày hôm sau tôi gần như không thể đi lại được. Tôi tiếp tục ngoái lại nhiều lần nữa để khẳng định rằng con đường phía sau vẫn hoang vắng. Nhưng cứ mỗi lần liếc nhìn một cách lo sợ như thế, thay vì làm tôi bớt sợ thì nó lại làm tôi hoang moang hơn. Cánh rừng linh sam trông tối hơn, rậm hơn. Tôi tiếp tục hình dung những gì ẩn sau cành cây chạy dọc theo con đường; những lối mòn chồng chéo của khu rừng, những chiếc bẫy đánh gãy chân, những hẻm núi nhung nhúc vô số loại động vật. Cho đến ngày thứ Bảy năm 1914 ấy, tôi vẫn cho rằng gấu là loài thú tệ hại nhất của khu rừng.
Vượt qua chỗ nối giữa con đường rừng với đường Geegan Flat chừng một dặm, tôi thấy ba đang đi về phía tôi huýt sáo bài "Chiếc thùng gỗ sỏi già nua". Ba mang chiếc cần câu có bánh xe xinh xắn mua ở Monkey Ward. Tay kia của ba xách giỏ đựng cá với dải băng thêu chữ "Hiến dâng người" được mẹ đính vào tay cầm từ hồi Dan còn sống. Tôi mải miết đi, chỉ khi nhìn thấy ba, mới bắt đầu chạy trở lại, với kiểu chạy ngất ngưởng do kiệt sức, còn đôi chân loạng choạng như một thuỷ thủ say rượu, ráng hết sức kêu lên: "Ba! ba! ba..."
Vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt của ba khi nhận ra tôi là hình ảnh không thể diễn tả, chói sáng nhất trong vô vàn ký ức. Ba thả chiếc cần câu, giỏ đựng cá xuống đường, không liếc nhìn, vội chạy đến chỗ tôi. Trong đời ba, tôi chưa chứng kiến lần nào ông chạy nhanh như vậy. Khi chúng tôi chạy đến bên nhau, một cảm xúc kỳ diệu dâng lên mạnh đến nỗi sự va chạm đã không tước đi tình cảm quí ấy. Tôi ôm choàng lấy ba, mặt đập mạnh vào thắt lưng của ba đến chảy máu mũi. Dĩ nhiên mãi về sau tôi mới biết. Lúc ấy tôi chỉ dang tay, dùng hết sức ôm cứng lấy ba. Tôi ôm và cọ mặt nóng hổi của mình vào bụng ba, bôi bẩn chiếc áo màu xanh đã cũ của ba với máu, nước mắt và dãi mũi.
- Gary, chuyện gì vậy? Điều gì đã xảy ra? Con không sao chứ?
- Mẹ đã chết!... Tôi nức nở... Con gặp một người đàn ông ở trong rừng, ông ta bảo con rằng mẹ đã chết. Mẹ bị ong cắn, sưng phồng lên như Dan rồi chết! Mẹ đang nằm trên sàn bếp và Candy Bill... liếm nước mm-mắt... trên... trên...
"Mắt mẹ" là những chữ cuối cùng mà tôi muốn nói ra nhưng khi ấy lồng ngực co thắt mạnh nên tôi không thể thốt ra được nữa. Nước mắt lại trào ra và gương mặt kinh hoàng lo sợ của ba nhoà thành gương mặt của ba người chồng chéo nhau. Tôi bắt đầu rống lên, không phải giống như một chú nhóc bị đau khi đầu gối bị trầy, mà tựa như con chó tru trong đêm khi phát hiện ra điềm gở nào đó.
Ba ôm chặt tôi vào lòng. Song tôi luồn qua, liếc qua vai nhìn trở lại. Tôi muốn biết chắc rằng gã đàn ông mặc đồ đen không đuổi theo nữa. Không có dấu hiệu nào chứng tỏ sự hiện diện của hắn. Con đường hun hút xuyên qua rừng hoàn toàn hoang vắng. Tôi thầm nhủ bất kỳ lí do nào thì mình cũng sẽ vĩnh viễn không đặt chân trở lại con đường đó nữa và lúc bấy giờ tôi nghĩ rằng ân sủng lớn nhất mà Chúa ban cho tạo vật của người trên thế gian này là chẳng thể nào biết được điều gì sẽ xẩy ra. Ý kiến ấy đã biện minh cho việc từ bỏ ý định kia của tôi. Dẫu sao, vào thời khắc đó, tôi đã có cơ hội để nghiệm ra rằng con người chỉ là những thực thể cô đơn.
Sau đó, tôi nghĩ về mẹ, người mẹ dịu dàng đã chết của tôi, rồi úp mặt trở lại vào lòng ba và tiếp tục thổn thức.
- Gary, nghe ba nói đây này... Ba lên tiếng sau một hồi im lặng.
Tôi vẫn tiếp tục khóc.
Ba để tôi nức nở một lát rồi lấy tay nâng cằm tôi lên để có thể nhìn thẳng vào mặt, nhưng tôi tránh không nhìn ba.
- Mẹ con vẫn bình thường... Ba nói.
Ngước nhìn ba qua dòng nước mắt đang chảy tràn xuống má, tôi không tin.
- Ba không biết ai là người báo tin sai như vậy hoặc giả đấy là một thằng chó má bẩn thỉu muốn gây thương tổn tâm hồn con, nhưng ba thề trước Chúa là mẹ con vẫn còn khoẻ.
- Nhưng... nhưng ông ta đã nói...
- Ba không quan tâm đến những gì hắn nói. Ba trở về nhà sớm hơn dự định bởi Eversham không muốn bán bò. Ba nghĩ nếu đi nhanh thì vẫn còn thời gian để câu cá cùng con. Ba đi lấy cần câu và giỏ đựng trong lúc mẹ làm cho chúng ta mấy chiếc bánh nhân mứt. Những chiếc bánh vừa mới nướng của mẹ vẫn đang ấm. Như thế, nửa giờ trước đây mẹ khoẻ, Gary ạ. Và ba đảm bảo rằng chẳng một ai biết được tin gì về mẹ sớm hơn ba...
Nhìn qua vai tôi, ba chợt gằn giọng:
- Gã đàn ông ấy là ai vậy? Hắn ở đâu? Ba sẽ tìm và tẩn cho hắn một trận.