Thông tin truyện
Tác giả : Minh Quân & Mỹ LanQuốc gia : Việt Nam Thể loại : Kinh dị Số chương : 14 Người đăng : Hồ Vũ Tuấn Anh
Đọc truyện
Serve 1
Đêm ấy xe ngựa trở lại. Nàng thức giấc lúc hai giờ sáng. Nhìn ra cửa sổ, cô gái thấy chỉ có hai xe thôi. Cỡ sáu người tất cả. Những xe ngựa có vẻ kỳ bí và giống như xe tang. Bóng người di động trên sân lặng lẽ. Mary tưởng như đó là hình ảnh của một ảo mộng, nhưng đó là sự thật. Các xe đều trống rỗng, hàng hóa từ trong phòng được khuân ra, chất ngập xe. Tại Helford, ít ai nói tới chuyện buôn lậu, mà có nói đến thì bằng nháy mắt và nụ cười khoan thứ, y như những chai rượu lậu chỉ là một xa xí phẩm vô hại chứ không phải là một tội ác đè nặng lương tâm. Đây khác hẳn: bọn bất lương đã nhúng tay vào máu người. Kẻ nào thấy lương tâm cắn rứt, thì sẽ lãnh một sợi dây tròng vào cổ như nàng đã thấy. Tổ chức của Joss như một vòng xích sắt: không có khoen nào được yếu. Bỗng Mary có cảm tưởng chuyện Jean đến quán hôm qua là có mục đích rõ ràng: hắn muốn báo trước cho Joss biết xe đến đêm nay. Mary chợt giận mình quá đỗi. Vậy mà nàng tưởng sẽ là bạn với Jean. Anh em họ cộng tác với nhau, rõ ràng quá. Chắc một điểm lương tâm vùng dậy, ngo ngoe trong chốc lát, xui anh ta quan tâm đến số phận Mary, khuyên nàng rời lữ quán, vì anh ta biết rõ cái gì đợi Mary. Vậy mà cô lại vướng víu bà dì như vướng bận đứa con nhỏ còn ẵm ngửa, có bực không? Các xe đã đầy nhóc hàng hóa. Chúng lặng lẽ lần lượt rời lữ quán. Công việc đêm nay nhanh chóng hơn lần trước. Không có ai đột nhập bí mật vào như lần trước, hay trò chuyện cùng chủ quán. Nhiều ngày tiếp theo, không có gì xảy ra. Những chuyến xe chạy ngang, lủi nhanh như một con bọ hung bị đuổi. Một sáng kia trời lạnh, đá phủ ngập sân, mặt trời le lói giữa bầu trời trong sáng. Núi đá sừng sững màu xanh thẫm, các vũng lầy thường ẩm và nâu hôm nay cũng hóa trắng, lấp lánh ánh nắng chan hòa. Gió thổi nhẹ. Mary bớt nản khi thấy mặt trời. Nàng mang áo quần đi giặt. Nước ấm và bọt xà phòng làm nàng thích thú, vừa hát vừa làm việc. Sáng nay, Joss lên ngựa ra đi. Mỗi lần lão đi, Mary thấy nhẹ nhõm lạ. Bỗng có tiếng gõ vội vàng nơi cửa kính. Mary quay lại nhìn, dì nàng tái xanh ra hiệu cho nàng vào nhà. Mary vội chùi tay vào tập dề, chạy vào cửa sau. Dì ôm lấy Mary run rẩy, lắp bắp không ra tiếng. Mary trấn an dì: - Có gì vậy, thưa dì? Đừng sợ, dì cứ thong thả nói. Dì ngồi xuống đi! Nàng nói và dìu dì lại ghế. Dì Patience cắn môi, hất hàm chỉ ra cửa, thì thào: - Ông Bassat đến! Ông đến với một người nữa! Chúa ơi! Ta làm sao đây, hở Mary? Tiếng dì nghẹn trong cổ họng trong lúc tiếng gõ cửa cấp bách hơn. Dì nói như rên: - Ông ấy tới làm chi hở trời? Ông ấy có tới đây bao giờ đâu? Chắc ông ấy nghe chuyện gì rồi. Mary! Làm sao bây giờ? Mary suy nghĩ thật nhanh. Nếu đại diện pháp luật đến thì còn đợi gì nữa? Nàng sẽ kể hết, sẽ tố cáo không sót một chi tiết nhỏ. Nhưng dì nàng run rẩy nắm chặt tay nàng, van vỉ: - Mary! Cháu hãy cứu dì! Cháu hãy thương dì. Nếu có chuyện gì xảy ra cho anh ấy, chắc dì chết mất! Cháu ơi! Mary... Tiếng gõ cửa càng gấp. Mary nói: - Dì cứ yên tâm. Ta phải mở cửa cho họ vô nhưng dì đừng kể lôi thôi chi cả. Cứ nói chú đi vắng và dì không biết gì là yên. Có cháu đứng bên dì, đừng sợ. Mary lại mở cửa. Hai người lại đứng ở cổng. Một người to lớn cưỡi con ngựa ô tuyệt đẹp, mặc áo choàng, mũ gần kín mắt, khoảng 50. Ông quát: - Làm gì lâu lắc vậy? Coi bộ lữ quán nầy không muốn tiếp khách hàng phải không? Chủ nhân đâu? Dì Patience đẩy cháu tới trước. Mary điềm tĩnh: - Ông Merlyn đi vắng. Nếu ông muốn giải khát, xin mời hai ông vào, chúng tôi xin hầu. - Hừ! Hết chỗ rồi sao đến đây giải khát? Ta muốn gặp chủ nhân. Bà nầy là vợ Merlyn phải không? Thế bao giờ chồng bà về? - Dạ thưa ngài, nhà tôi đi từ sáng sớm và không biết có về kịp tối nay không? - Phiền chưa! Tôi muốn nói chuyện với ông ta. Nầy, bà Joss! Dù chồng bà đã lừa tôi mua được lữ quán nầy, nhưng tôi cũng không đến đây vì chuyện đó nữa. Điều tôi không dung được là đất đai quanh đây của tôi bị mang tiếng vì chuyện bất lương xảy ra khắp vùng. - Thưa, tôi không hiểu ngài muốn nói chi? Chúng tôi sống thật yên tĩnh. Có cháu tôi đây, biết rõ. - Thôi! Tôi không ngu đâu. Tôi để ý lữ quán nầy lâu rồi. Lữ quán nầy làm cho dân quanh đây đến tận bờ bể đều khiếp đảm. Chớ giở trò đóng kịch với tôi. Tên giúp việc nắm cương ngựa cho chủ nhân bước xuống. Ông Bassat nói tiếp: - Nhân dịp nầy, ta cần xem xét khắp nhà. Bà đừng phản đối vô ích. Ta là quan tòa, có giấy khám nhà đây. Ông vượt qua hai người, bước vào trong. Bà dì giơ tay ngăn, nhưng cháu bà khuyên: - Dì nên để ông ấy khám. Ngăn lại chỉ tổ ông nổi giận lên. - Chúa ơi!... Ông Bassat kêu to... Sao mà giống nhà mồ quá! Các người làm sao nên nỗi nầy? Xưa kia lữ quán xinh xắn bao nhiêu! Bàn ghế đâu? Ông xông vào phòng khách và trỏ những vách ẩm ướt: - Không bao lâu nữa mái nhà sẽ đổ ập xuống cho xem! Đời tôi, tôi chưa từng thấy sự bê bối đến mức nầy. Nào! Bà đưa tôi lên lầu coi. Mặt tái xanh, dì Patience quay về phía cầu thang, đưa mắt tìm Mary để trấn tĩnh. Mỗi góc nhà đều được ông Bassast ghé mắt nhìn. Ông giở từng cái bao cũ, quan sát đống khoai tây, miệng không ngớt quát tháo vì kinh tởm và giận dữ: - Đây là lữ quán ư? Không có lấy một cái giường? Mọt ăn từ trên xuống dưới, bẩn thỉu hôi hám. Bà hóa câm rồi sao, bà Merlyn? Dì Patience chỉ lắc đầu. Ông Bassat quay sang cô gái: - Vậy còn cô? Cô có gì nói không? - Thưa, tôi mới đến đây. Mẹ tôi mất nên tôi đến ở với dì tôi. Dì tôi không được mạnh trong mình, thần kinh yếu. - Sống ở đây thì thần kinh yếu là phải. Nào, cô dẫn tôi đến căn phòng kín mít dưới kia xem. Dì Patience nhìn Mary trân trối. Mary gượng làm gan: - Thưa, ông muốn nói căn phòng làm kho phải không ạ? Chú tôi đã khóa lại trước khi đi, và tôi không biết chìa khóa ông ấy để đâu hay mang theo. - Vậy thì hỏi coi bà ấy có cất hay không? Dì Patience lắc đầu lặng lẽ. - Được! Không sao! Ta đập gãy cửa mà vào! Nói xong, ông ra sân gọi người giúp việc. Mary nắm tay dì thật chặt: - Dì đừng run, người ta biết. Cứ phớt tỉnh. May ra... Gã người làm cầm thanh sắt lăm lăm trong tay. Gã có vẻ hài lòng vì công tác chủ giao phó. Mary hẳn sung sướng nếu không có dì bên cạnh. Lần đầu, nàng được ghé mắt vào căn phòng bí mật. Nhưng nếu họ khám phá ra cái gì thì hai dì cháu sẽ liên lụy, làm sao chứng minh là mình vô tội? Ai tin được nàng, khi dì nàng mù quáng bênh vực kẻ bất lương? Nàng bối rối đứng nhìn thanh sắt đập đùng đùng vào then cửa, tiếng động vang lên chát chúa. Khá lâu cửa mới gãy nghe răng rắc và bật ra. Dì nàng kêu lên trong lúc ông Bassat đẩy bà qua một bên, lấy lối đi vào. Richards vuốt mồ hôi bò dài xuống mặt. Căn phòng tràn bóng tối, mấy chồng bao sắp dọc theo cửa sổ đóng kín. Ông tòa hét: - Đem cho ta mẩu nến coi! Y như đáy giếng. Richards rút trong túi mẩu nến, bật diêm đốt lên rồi trao cho chủ. Bassat cầm giơ cao lên, bước tới. Ông soi vào từng góc, trong lúc tất cả lặng im. Ông tỏ vẻ tức tối vì thất vọng: - Lạ thật! Không có gì cả. Ngoại trừ chồng bao trong góc, căn phòng hoàn toàn trống trơn. Bụi và mạng nhện chen nhau trải khắp phòng. Không bàn, không ghế, không tủ giường chi hết. Ống khói cũng bịt kín mít. Trên chồng bao, có sợi dây thừng. - Được! Lần nầy tôi thua lão Merlyn. Nhưng có một ngày, hắn sẽ đền tội xứng đáng! Ông quay ra. Gã Richards dắt ngựa lại cho chủ. Ông lại hỏi cô gái: - Nầy, cô nên nghe tôi, dì cô chắc câm và không còn trí nhớ. Cô hiểu tiếng Anh chứ? Đừng giả vờ không biết gì cả về hành động cũng Merlyn. Hãy cho tôi biết có ai đến đây, ngày hoặc đêm? Mary nhìn thẳng vào mắt nguời hỏi (lần thứ nhất vì dì nàng, nàng nói dối trơn tru): - Quả thật chưa bao giờ tôi thấy ai đến, ngày cũng như đêm. Vả lại tôi ngủ say quá, vì vất vả cả ngày. - Cô có biết vì sao phòng kia kín mít không ? Cô đã vào đó lần nào chưa? - Dạ chưa và tôi không hiểu ý chủ nhân nổi, ông là một người kỳ lạ. - Đúng, kỳ lạ lắm. Lữ quán mà không tiếp khách. Kỳ lạ đến nỗi dân quanh đây chỉ có thể yên giấc khi Merlyn bị treo cổ như cha hắn trước kia. Cô nói lại với hắn khi hắn trở về, nói y như tôi nói, nghe? - Thưa ông, tôi sẽ nói đúng như ông dặn. - Nầy, cô không ngán phải sống với một người khùng như bà Merlyn ư? - Thưa ông, đó là em ruột mẹ tôi. - Cô thông minh, nhanh trí lắm. Nhưng tôi không ao ước làm cha mẹ cô. Thà tôi thấy con tôi nằm dưới đất còn hơn để sống trong lữ quán Giao Mai với kẻ bất lương. À, quên, (ông đã bước ra rồi lại quay vào) cô có thấy Jean Merlyn, em ruột chủ quán không? - Thưa ông, chưa. Tôi chưa hề nghe đến tên nầy. - Thật ư? Tốt lắm. Thôi, chào cô! Đợi cho người ngựa khuất sau đồi, Mary mới nói với dì, giọng hằn học trong lúc bà ngồi bệt xuống thở hổn hển: - Thôi, hết nguy hiểm rồi. Dì nên bình tĩnh lại. Dì và chú đã qua mặt ông tòa mà khỏi bóp kèn. Tài quá! Nàng rót nước uống một hơi, mất hết cả dịu dàng, kiên nhẫn. Nàng đã nói dối để cứu kẻ ác, trong lúc nàng chỉ muốn khai toạc hết sự thật. Nàng đã thấy sợi dây. Nàng muốn Joss bị treo cổ bằng chính sợi dây mà hắn ta đã dùng để treo cổ kẻ lạ trong đêm... Nàng muốn... Nhưng vì dì nàng, nàng đã không dám tố cáo kẻ bất lương. Thật ghê tởm! Mary này mà là đồng lõa của quân gian ư? Uống đến cốc nước thứ hai, Mary lại nhớ mình còn nói dối để cứu Jean, tên trộm ngựa. Nhục nhã, xấu hổ biết ngần nào? Trưa đó, Joss trở về, được vợ đón ở cửa bằng một tràng dài, tiếng nọ dính tiếng kia. Mary ngồi yên ngoài vườn. Nàng thấy chẳng việc gì phải chen vô. Thỉnh thoảng, Joss gặng hỏi lại đôi câu, giọng bẳn gắt. Rồi ông ta đến cửa sổ, vẫy nàng, mặt cau có: - Về đây! Kể đầu đuôi nghe coi. Một con vẹt còn nói rõ hơn dì cô. Mary bình tĩnh kể lại câu chuyện, trừ chuyện ông tòa hỏi Jean. Sau cùng Mary nhắc lại lời ông tòa dặn nàng. Joss im lặng nghe. Chờ Mary dứt lời, lão đá cái ghế ra tận cửa, gầm to: - Đồ hèn! Nó làm gì có quyền xét nhà? Trát tòa gì! Bịa! Vậy mà hai con ngu cũng để nó vô. Sáng nay mà có tao coi, nó sẽ về North Hill mà ngay vợ nó cũng không nhận ra và nó sẽ không còn ra người nữa. Đồ chó má! Nó có quyền sinh sát với ai kìa, chớ tao thì... còn lâu. Rồi nó sẽ van lạy tao cho mà coi. Chà! Hai con ngu sợ dữ, há? Có ngày tao đốt nhà nó cho coi... Joss la to đến nỗi Mary tưởng tai mình điếc luôn. Nhưng cô gái không sợ tí ti nào. Cô biết đó là cách để Joss đỡ tức, không có gì nguy hiểm. (Chỉ khi nào con người nầy thì thầm mới đáng gớm). Có thể lão đang sợ cũng nên? Mary lấy làm thú vị khi nghĩ đến điều nầy. - Lấy gì ăn coi! Ta còn phải đi có việc đây. Patience! Câm họng lại, bà khóc làm ta điên thêm. Mary cô khá lắm. Ta biết ơn cô đó! - Bộ chú tưởng tôi làm vậy vì chú chắc? Mary nhìn thẳng vào Joss, hỏi. - Vì ai thì vì, ta không cần biết. Cắt miếng bánh coi! Đừng nói nhiều. Xong bữa ăn, Joss ra chuồng ngựa. Mary tưởng lão cỡi ngựa đi, nhưng lão lại thôi, ra bếp, leo rào và đi bộ, băng qua đồng hoang phía sau, tiến về phía núi đá Telbo-Hough. Nàng do dự, không biết có nên thực hiện điều dự tính chăng? Sau cùng, Mary cởi tạp dề, khoác khăn len, chạy theo Joss. Đến đỉnh đồi, cô nấp sau tảng đá, chờ Joss đi khuất thật xa mới dám theo sau. Cô rẽ cỏ dại, bước tràn trên đá sỏi. Nàng nghi là sự có mặt ông tòa bất ngờ làm cho Joss thay đổi chương trình. Bây giờ đang xế trưa, rất dễ cho nàng theo dõi lão. Đất hơi khô, đá đông cứng, nhưng Mary đã có kinh nghiệm qua những bận đi dạo trước. Sau vài dặm, cuộc theo dõi bắt đầu khó hơn. Nàng phải giữ khoảng cách khá xa mà Joss thì lại đi nhanh. Khỏi núi đá Codda, Merlyn rẽ qua hướng đông, lão chỉ là một chấm đen nhỏ giữa đồng hoang bao la nâu sẫm, dù lão vốn cao lớn. Chốc chốc, Mary phải dừng chân, lấy tay gạt mồ hôi trán. Trót theo khá xa, Mary không thể bỏ cuộc, ít ra phải khám phá được điều gì mới bỏ công chứ ? Nàng dẫm trên mặt đất nâu và đầy sình lầy. Nước ngấm vào giầy vừa lạnh vừa nặng. Váy nàng bị rách lai vài chỗ và cũng ngấm nước. Đã qua đoạn đường nguy hiểm. Phía trước, Joss mờ mờ băng qua đám cỏ gai rồi khuất sau tảng đá đen ngòm, mất hút. Giữa bụi rậm và bùn, Mary mất dấu Joss. Phần sợ sa lầy nen nàng phải vòng lên trên và trượt chân mấy bận. Càng lúc đá lởm chởm thêm. Vài con dê rừng nghe tiếng động thò đầu nhìn Mary. Mặt trời núp sau những đám mây từ hướng tây tụ lại. Đồng hoang đổi màu. Im lặng một cách dễ sợ. Khi Mary lên đến ngọn núi, xung quanh toàn màu xám. Từ các vũng bùn, những làn hơi trắng mờ nhẹ bay lên. Trời như sắp tối. Joss biến mất tăm. Mary tuyệt vọng. Đành quay về thôi, nếu chần chờ, đêm nay nàng sẽ lạc giữa núi đá hay đồng hoang mất. Quả mình ngu, Mary thầm nghĩ. Trời tháng chạp mau tối, hoàng hôn trên đồng rất ngắn, đêm xuống mau không có giai đoạn chuyển tiếp. Mà sương mù càng nguy hiểm: y như một hàng rào trắng dầy, che phủ mặt, cách năm tấc, có khi không thấy chi hết. Mary chạy bổ xuống núi, bóng tối như đuổi gấp sau lưng. Ngay dưới chân nàng là nguồn sông Fowey. Phải tránh nơi đó, vì mặt đất quanh đó rất dễ lún sâu. Vòng phía trái, Mary thận trọng mỗi bước chân. Khi cô xuống đến đồng bằng, bỏ sau lưng ngọn Brow Willy uy nghi, cô độc thì sương mù và bóng đêm đã ngự trị khắp nơi, làm nàng không sao tìm ra phương hướng. Nàng cố trấn tĩnh tìm lối về nhà. Quấn chặt khăn quàng và kéo váy lên cao, Mary bước nhanh. Bỗng nàng bị con suối chắn ngang, lúc đi đâu có suối? Nàng biết mình lạc đường rồi nhưng vẫn can đảm lội qua, nước lên tới gối. Nàng cho là mình rất may, vì suối không sâu hơn. Mặt đất cao dần, Mary yên lòng bước tới. Đường như dài bất tận, dẫn đến một ngã rẽ về phía phải. Cỏ mọc um tùm chứng tỏ ít người qua lại nhưng cũng có vết xe ngựa. Bớt lo lắng, nàng mới thấy mệt lử, cô gái lầm lũi bước, tim đập rộn ràng, hơi thở hổn hển. Nàng nôn nả mong thấy ống khói của lữ quán Giao Mai, như mong gặp bạn thân, nhưng một con đường khác nữa băng ngang giữa lối đi và nàng phân vân không biết nên theo lối nào. Thình lình, có tiếng vó ngựa lại gần. Mary đứng lại giữa đường, chờ đợi. Thoáng chốc, bóng ngựa rõ dần. Người cỡi ngựa có vẻ sợ khi thấy Mary, vội kêu lên: - Ai đó? Có người phải không? Rồi nhận ra Mary, ông ta kinh ngạc, hỏi: - Một phụ nữ? Trời ơi! Bà đi đâu vậy? Mary nắm cương ngựa: - Xin ông chỉ giúp đường về, tôi đi lạc. - Nhưng cô ở đâu? Tôi sẽ giúp cô. Giọng ông ta chậm rãi, dịu dàng, Mary đoán là một người có thế lực. - Thưa ông, tôi ở lữ quán Giao Mai. Lỡ lời Mary chợt hối. Nghe tiếng đó, chắc ông giục ngựa dông thẳng mất? Người kia im lặng. Mary càng hoảng. Nhưng ông ta lại cất giọng dịu dàng, không thay đổi: - Vậy thì cô đang cách đó rất xa. Hiện đây là sườn đồi Hendra. Ông nhìn chăm chăm cô gái, tiếp: - Cô kiệt sức rồi. Làm sao đi nổi? Vả tôi cũng không nỡ bỏ cô ở đây một mình. Đây không xa làng mấy. Hãy theo tôi, lên ngựa. Đây! Tôi đỡ cô lên! Mary tuân lời người lạ. - Hãy về nhà tôi, sưởi ấm và làm khô giầy áo, ăn chút gì đỡ lòng rồi tôi đưa cô về lữ quán. Giọng ông ta âu yếm nhưng trang nghiêm. Mary muốn quên hết, tuân theo để được nghỉ ngơi giây lát. Nàng cho rằng mình quả thật may mắn nên mới gặp được người khả kính như thế này. Khi ông ngước mắt nhìn lên, Mary thấy rõ mặt ông ta. Đôi mắt lạ lùng, trong như thủy tinh, như có khả năng soi thấu tâm can người khác. Tóc ông ta cũng trắng toát. Kỳ quá: ông ta đã già đâu? Khuôn mặt, giọng nói đều chứng tỏ ông ta còn trẻ. Nàng bối rối trong một thoáng khi nhận ra điều nầy: ông ta bị chứng bạch tạng. Người lạ giở mũ, nghiêng mình, tự giới thiệu: - Mặc dù cuộc gặp gỡ bất ngờ, tôi cũng cho cô biết: tôi là Francis Davey, linh mục phó xứ Altarnun.Hết phần mở đầu
Chọn chương để xem
Serve 1
Đêm ấy xe ngựa trở lại.
Nàng thức giấc lúc hai giờ sáng. Nhìn ra cửa sổ, cô gái thấy chỉ có hai xe thôi. Cỡ sáu người tất cả. Những xe ngựa có vẻ kỳ bí và giống như xe tang. Bóng người di động trên sân lặng lẽ. Mary tưởng như đó là hình ảnh của một ảo mộng, nhưng đó là sự thật. Các xe đều trống rỗng, hàng hóa từ trong phòng được khuân ra, chất ngập xe.
Tại Helford, ít ai nói tới chuyện buôn lậu, mà có nói đến thì bằng nháy mắt và nụ cười khoan thứ, y như những chai rượu lậu chỉ là một xa xí phẩm vô hại chứ không phải là một tội ác đè nặng lương tâm. Đây khác hẳn: bọn bất lương đã nhúng tay vào máu người. Kẻ nào thấy lương tâm cắn rứt, thì sẽ lãnh một sợi dây tròng vào cổ như nàng đã thấy.
Tổ chức của Joss như một vòng xích sắt: không có khoen nào được yếu.
Bỗng Mary có cảm tưởng chuyện Jean đến quán hôm qua là có mục đích rõ ràng: hắn muốn báo trước cho Joss biết xe đến đêm nay. Mary chợt giận mình quá đỗi. Vậy mà nàng tưởng sẽ là bạn với Jean. Anh em họ cộng tác với nhau, rõ ràng quá. Chắc một điểm lương tâm vùng dậy, ngo ngoe trong chốc lát, xui anh ta quan tâm đến số phận Mary, khuyên nàng rời lữ quán, vì anh ta biết rõ cái gì đợi Mary.
Vậy mà cô lại vướng víu bà dì như vướng bận đứa con nhỏ còn ẵm ngửa, có bực không?
Các xe đã đầy nhóc hàng hóa. Chúng lặng lẽ lần lượt rời lữ quán.
Công việc đêm nay nhanh chóng hơn lần trước. Không có ai đột nhập bí mật vào như lần trước, hay trò chuyện cùng chủ quán.
Nhiều ngày tiếp theo, không có gì xảy ra. Những chuyến xe chạy ngang, lủi nhanh như một con bọ hung bị đuổi.
Một sáng kia trời lạnh, đá phủ ngập sân, mặt trời le lói giữa bầu trời trong sáng. Núi đá sừng sững màu xanh thẫm, các vũng lầy thường ẩm và nâu hôm nay cũng hóa trắng, lấp lánh ánh nắng chan hòa.
Gió thổi nhẹ. Mary bớt nản khi thấy mặt trời. Nàng mang áo quần đi giặt. Nước ấm và bọt xà phòng làm nàng thích thú, vừa hát vừa làm việc. Sáng nay, Joss lên ngựa ra đi.
Mỗi lần lão đi, Mary thấy nhẹ nhõm lạ.
Bỗng có tiếng gõ vội vàng nơi cửa kính. Mary quay lại nhìn, dì nàng tái xanh ra hiệu cho nàng vào nhà. Mary vội chùi tay vào tập dề, chạy vào cửa sau. Dì ôm lấy Mary run rẩy, lắp bắp không ra tiếng.
Mary trấn an dì:
- Có gì vậy, thưa dì? Đừng sợ, dì cứ thong thả nói. Dì ngồi xuống đi!
Nàng nói và dìu dì lại ghế. Dì Patience cắn môi, hất hàm chỉ ra cửa, thì thào:
- Ông Bassat đến! Ông đến với một người nữa! Chúa ơi! Ta làm sao đây, hở Mary?
Tiếng dì nghẹn trong cổ họng trong lúc tiếng gõ cửa cấp bách hơn. Dì nói như rên:
- Ông ấy tới làm chi hở trời? Ông ấy có tới đây bao giờ đâu? Chắc ông ấy nghe chuyện gì rồi. Mary! Làm sao bây giờ?
Mary suy nghĩ thật nhanh. Nếu đại diện pháp luật đến thì còn đợi gì nữa? Nàng sẽ kể hết, sẽ tố cáo không sót một chi tiết nhỏ. Nhưng dì nàng run rẩy nắm chặt tay nàng, van vỉ:
- Mary! Cháu hãy cứu dì! Cháu hãy thương dì. Nếu có chuyện gì xảy ra cho anh ấy, chắc dì chết mất! Cháu ơi! Mary...
Tiếng gõ cửa càng gấp.
Mary nói:
- Dì cứ yên tâm. Ta phải mở cửa cho họ vô nhưng dì đừng kể lôi thôi chi cả. Cứ nói chú đi vắng và dì không biết gì là yên. Có cháu đứng bên dì, đừng sợ.
Mary lại mở cửa. Hai người lại đứng ở cổng. Một người to lớn cưỡi con ngựa ô tuyệt đẹp, mặc áo choàng, mũ gần kín mắt, khoảng 50. Ông quát:
- Làm gì lâu lắc vậy? Coi bộ lữ quán nầy không muốn tiếp khách hàng phải không? Chủ nhân đâu?
Dì Patience đẩy cháu tới trước. Mary điềm tĩnh:
- Ông Merlyn đi vắng. Nếu ông muốn giải khát, xin mời hai ông vào, chúng tôi xin hầu.
- Hừ! Hết chỗ rồi sao đến đây giải khát? Ta muốn gặp chủ nhân. Bà nầy là vợ Merlyn phải không? Thế bao giờ chồng bà về?
- Dạ thưa ngài, nhà tôi đi từ sáng sớm và không biết có về kịp tối nay không?
- Phiền chưa! Tôi muốn nói chuyện với ông ta. Nầy, bà Joss! Dù chồng bà đã lừa tôi mua được lữ quán nầy, nhưng tôi cũng không đến đây vì chuyện đó nữa. Điều tôi không dung được là đất đai quanh đây của tôi bị mang tiếng vì chuyện bất lương xảy ra khắp vùng.
- Thưa, tôi không hiểu ngài muốn nói chi? Chúng tôi sống thật yên tĩnh. Có cháu tôi đây, biết rõ.
- Thôi! Tôi không ngu đâu. Tôi để ý lữ quán nầy lâu rồi. Lữ quán nầy làm cho dân quanh đây đến tận bờ bể đều khiếp đảm. Chớ giở trò đóng kịch với tôi.
Tên giúp việc nắm cương ngựa cho chủ nhân bước xuống. Ông Bassat nói tiếp:
- Nhân dịp nầy, ta cần xem xét khắp nhà. Bà đừng phản đối vô ích. Ta là quan tòa, có giấy khám nhà đây.
Ông vượt qua hai người, bước vào trong. Bà dì giơ tay ngăn, nhưng cháu bà khuyên:
- Dì nên để ông ấy khám. Ngăn lại chỉ tổ ông nổi giận lên.
- Chúa ơi!... Ông Bassat kêu to... Sao mà giống nhà mồ quá! Các người làm sao nên nỗi nầy? Xưa kia lữ quán xinh xắn bao nhiêu! Bàn ghế đâu?
Ông xông vào phòng khách và trỏ những vách ẩm ướt:
- Không bao lâu nữa mái nhà sẽ đổ ập xuống cho xem! Đời tôi, tôi chưa từng thấy sự bê bối đến mức nầy. Nào! Bà đưa tôi lên lầu coi.
Mặt tái xanh, dì Patience quay về phía cầu thang, đưa mắt tìm Mary để trấn tĩnh.
Mỗi góc nhà đều được ông Bassast ghé mắt nhìn. Ông giở từng cái bao cũ, quan sát đống khoai tây, miệng không ngớt quát tháo vì kinh tởm và giận dữ:
- Đây là lữ quán ư? Không có lấy một cái giường? Mọt ăn từ trên xuống dưới, bẩn thỉu hôi hám. Bà hóa câm rồi sao, bà Merlyn?
Dì Patience chỉ lắc đầu.
Ông Bassat quay sang cô gái:
- Vậy còn cô? Cô có gì nói không?
- Thưa, tôi mới đến đây. Mẹ tôi mất nên tôi đến ở với dì tôi. Dì tôi không được mạnh trong mình, thần kinh yếu.
- Sống ở đây thì thần kinh yếu là phải. Nào, cô dẫn tôi đến căn phòng kín mít dưới kia xem.
Dì Patience nhìn Mary trân trối. Mary gượng làm gan:
- Thưa, ông muốn nói căn phòng làm kho phải không ạ? Chú tôi đã khóa lại trước khi đi, và tôi không biết chìa khóa ông ấy để đâu hay mang theo.
- Vậy thì hỏi coi bà ấy có cất hay không?
Dì Patience lắc đầu lặng lẽ.
- Được! Không sao! Ta đập gãy cửa mà vào!
Nói xong, ông ra sân gọi người giúp việc.
Mary nắm tay dì thật chặt:
- Dì đừng run, người ta biết. Cứ phớt tỉnh. May ra...
Gã người làm cầm thanh sắt lăm lăm trong tay. Gã có vẻ hài lòng vì công tác chủ giao phó.
Mary hẳn sung sướng nếu không có dì bên cạnh. Lần đầu, nàng được ghé mắt vào căn phòng bí mật. Nhưng nếu họ khám phá ra cái gì thì hai dì cháu sẽ liên lụy, làm sao chứng minh là mình vô tội? Ai tin được nàng, khi dì nàng mù quáng bênh vực kẻ bất lương? Nàng bối rối đứng nhìn thanh sắt đập đùng đùng vào then cửa, tiếng động vang lên chát chúa.
Khá lâu cửa mới gãy nghe răng rắc và bật ra. Dì nàng kêu lên trong lúc ông Bassat đẩy bà qua một bên, lấy lối đi vào. Richards vuốt mồ hôi bò dài xuống mặt.
Căn phòng tràn bóng tối, mấy chồng bao sắp dọc theo cửa sổ đóng kín. Ông tòa hét:
- Đem cho ta mẩu nến coi! Y như đáy giếng.
Richards rút trong túi mẩu nến, bật diêm đốt lên rồi trao cho chủ. Bassat cầm giơ cao lên, bước tới.
Ông soi vào từng góc, trong lúc tất cả lặng im. Ông tỏ vẻ tức tối vì thất vọng:
- Lạ thật! Không có gì cả.
Ngoại trừ chồng bao trong góc, căn phòng hoàn toàn trống trơn. Bụi và mạng nhện chen nhau trải khắp phòng. Không bàn, không ghế, không tủ giường chi hết. Ống khói cũng bịt kín mít. Trên chồng bao, có sợi dây thừng.
- Được! Lần nầy tôi thua lão Merlyn. Nhưng có một ngày, hắn sẽ đền tội xứng đáng!
Ông quay ra. Gã Richards dắt ngựa lại cho chủ. Ông lại hỏi cô gái:
- Nầy, cô nên nghe tôi, dì cô chắc câm và không còn trí nhớ. Cô hiểu tiếng Anh chứ? Đừng giả vờ không biết gì cả về hành động cũng Merlyn. Hãy cho tôi biết có ai đến đây, ngày hoặc đêm?
Mary nhìn thẳng vào mắt nguời hỏi (lần thứ nhất vì dì nàng, nàng nói dối trơn tru):
- Quả thật chưa bao giờ tôi thấy ai đến, ngày cũng như đêm. Vả lại tôi ngủ say quá, vì vất vả cả ngày.
- Cô có biết vì sao phòng kia kín mít không ? Cô đã vào đó lần nào chưa?
- Dạ chưa và tôi không hiểu ý chủ nhân nổi, ông là một người kỳ lạ.
- Đúng, kỳ lạ lắm. Lữ quán mà không tiếp khách. Kỳ lạ đến nỗi dân quanh đây chỉ có thể yên giấc khi Merlyn bị treo cổ như cha hắn trước kia. Cô nói lại với hắn khi hắn trở về, nói y như tôi nói, nghe?
- Thưa ông, tôi sẽ nói đúng như ông dặn.
- Nầy, cô không ngán phải sống với một người khùng như bà Merlyn ư?
- Thưa ông, đó là em ruột mẹ tôi.
- Cô thông minh, nhanh trí lắm. Nhưng tôi không ao ước làm cha mẹ cô. Thà tôi thấy con tôi nằm dưới đất còn hơn để sống trong lữ quán Giao Mai với kẻ bất lương. À, quên, (ông đã bước ra rồi lại quay vào) cô có thấy Jean Merlyn, em ruột chủ quán không?
- Thưa ông, chưa. Tôi chưa hề nghe đến tên nầy.
- Thật ư? Tốt lắm. Thôi, chào cô!
Đợi cho người ngựa khuất sau đồi, Mary mới nói với dì, giọng hằn học trong lúc bà ngồi bệt xuống thở hổn hển:
- Thôi, hết nguy hiểm rồi. Dì nên bình tĩnh lại. Dì và chú đã qua mặt ông tòa mà khỏi bóp kèn. Tài quá!
Nàng rót nước uống một hơi, mất hết cả dịu dàng, kiên nhẫn. Nàng đã nói dối để cứu kẻ ác, trong lúc nàng chỉ muốn khai toạc hết sự thật. Nàng đã thấy sợi dây. Nàng muốn Joss bị treo cổ bằng chính sợi dây mà hắn ta đã dùng để treo cổ kẻ lạ trong đêm... Nàng muốn... Nhưng vì dì nàng, nàng đã không dám tố cáo kẻ bất lương. Thật ghê tởm! Mary này mà là đồng lõa của quân gian ư?
Uống đến cốc nước thứ hai, Mary lại nhớ mình còn nói dối để cứu Jean, tên trộm ngựa. Nhục nhã, xấu hổ biết ngần nào?
Trưa đó, Joss trở về, được vợ đón ở cửa bằng một tràng dài, tiếng nọ dính tiếng kia. Mary ngồi yên ngoài vườn. Nàng thấy chẳng việc gì phải chen vô.
Thỉnh thoảng, Joss gặng hỏi lại đôi câu, giọng bẳn gắt. Rồi ông ta đến cửa sổ, vẫy nàng, mặt cau có:
- Về đây! Kể đầu đuôi nghe coi. Một con vẹt còn nói rõ hơn dì cô.
Mary bình tĩnh kể lại câu chuyện, trừ chuyện ông tòa hỏi Jean. Sau cùng Mary nhắc lại lời ông tòa dặn nàng.
Joss im lặng nghe. Chờ Mary dứt lời, lão đá cái ghế ra tận cửa, gầm to:
- Đồ hèn! Nó làm gì có quyền xét nhà? Trát tòa gì! Bịa! Vậy mà hai con ngu cũng để nó vô. Sáng nay mà có tao coi, nó sẽ về North Hill mà ngay vợ nó cũng không nhận ra và nó sẽ không còn ra người nữa. Đồ chó má! Nó có quyền sinh sát với ai kìa, chớ tao thì... còn lâu. Rồi nó sẽ van lạy tao cho mà coi. Chà! Hai con ngu sợ dữ, há? Có ngày tao đốt nhà nó cho coi...
Joss la to đến nỗi Mary tưởng tai mình điếc luôn. Nhưng cô gái không sợ tí ti nào. Cô biết đó là cách để Joss đỡ tức, không có gì nguy hiểm. (Chỉ khi nào con người nầy thì thầm mới đáng gớm). Có thể lão đang sợ cũng nên? Mary lấy làm thú vị khi nghĩ đến điều nầy.
- Lấy gì ăn coi! Ta còn phải đi có việc đây. Patience! Câm họng lại, bà khóc làm ta điên thêm. Mary cô khá lắm. Ta biết ơn cô đó!
- Bộ chú tưởng tôi làm vậy vì chú chắc?
Mary nhìn thẳng vào Joss, hỏi.
- Vì ai thì vì, ta không cần biết. Cắt miếng bánh coi! Đừng nói nhiều.
Xong bữa ăn, Joss ra chuồng ngựa. Mary tưởng lão cỡi ngựa đi, nhưng lão lại thôi, ra bếp, leo rào và đi bộ, băng qua đồng hoang phía sau, tiến về phía núi đá Telbo-Hough. Nàng do dự, không biết có nên thực hiện điều dự tính chăng?
Sau cùng, Mary cởi tạp dề, khoác khăn len, chạy theo Joss.
Đến đỉnh đồi, cô nấp sau tảng đá, chờ Joss đi khuất thật xa mới dám theo sau. Cô rẽ cỏ dại, bước tràn trên đá sỏi. Nàng nghi là sự có mặt ông tòa bất ngờ làm cho Joss thay đổi chương trình. Bây giờ đang xế trưa, rất dễ cho nàng theo dõi lão. Đất hơi khô, đá đông cứng, nhưng Mary đã có kinh nghiệm qua những bận đi dạo trước.
Sau vài dặm, cuộc theo dõi bắt đầu khó hơn. Nàng phải giữ khoảng cách khá xa mà Joss thì lại đi nhanh.
Khỏi núi đá Codda, Merlyn rẽ qua hướng đông, lão chỉ là một chấm đen nhỏ giữa đồng hoang bao la nâu sẫm, dù lão vốn cao lớn.
Chốc chốc, Mary phải dừng chân, lấy tay gạt mồ hôi trán. Trót theo khá xa, Mary không thể bỏ cuộc, ít ra phải khám phá được điều gì mới bỏ công chứ ?
Nàng dẫm trên mặt đất nâu và đầy sình lầy. Nước ngấm vào giầy vừa lạnh vừa nặng. Váy nàng bị rách lai vài chỗ và cũng ngấm nước.
Đã qua đoạn đường nguy hiểm. Phía trước, Joss mờ mờ băng qua đám cỏ gai rồi khuất sau tảng đá đen ngòm, mất hút.
Giữa bụi rậm và bùn, Mary mất dấu Joss. Phần sợ sa lầy nen nàng phải vòng lên trên và trượt chân mấy bận. Càng lúc đá lởm chởm thêm. Vài con dê rừng nghe tiếng động thò đầu nhìn Mary. Mặt trời núp sau những đám mây từ hướng tây tụ lại. Đồng hoang đổi màu. Im lặng một cách dễ sợ.
Khi Mary lên đến ngọn núi, xung quanh toàn màu xám. Từ các vũng bùn, những làn hơi trắng mờ nhẹ bay lên.
Trời như sắp tối. Joss biến mất tăm. Mary tuyệt vọng. Đành quay về thôi, nếu chần chờ, đêm nay nàng sẽ lạc giữa núi đá hay đồng hoang mất. Quả mình ngu, Mary thầm nghĩ.
Trời tháng chạp mau tối, hoàng hôn trên đồng rất ngắn, đêm xuống mau không có giai đoạn chuyển tiếp. Mà sương mù càng nguy hiểm: y như một hàng rào trắng dầy, che phủ mặt, cách năm tấc, có khi không thấy chi hết.
Mary chạy bổ xuống núi, bóng tối như đuổi gấp sau lưng. Ngay dưới chân nàng là nguồn sông Fowey. Phải tránh nơi đó, vì mặt đất quanh đó rất dễ lún sâu.
Vòng phía trái, Mary thận trọng mỗi bước chân.
Khi cô xuống đến đồng bằng, bỏ sau lưng ngọn Brow Willy uy nghi, cô độc thì sương mù và bóng đêm đã ngự trị khắp nơi, làm nàng không sao tìm ra phương hướng.
Nàng cố trấn tĩnh tìm lối về nhà. Quấn chặt khăn quàng và kéo váy lên cao, Mary bước nhanh. Bỗng nàng bị con suối chắn ngang, lúc đi đâu có suối? Nàng biết mình lạc đường rồi nhưng vẫn can đảm lội qua, nước lên tới gối. Nàng cho là mình rất may, vì suối không sâu hơn. Mặt đất cao dần, Mary yên lòng bước tới.
Đường như dài bất tận, dẫn đến một ngã rẽ về phía phải. Cỏ mọc um tùm chứng tỏ ít người qua lại nhưng cũng có vết xe ngựa.
Bớt lo lắng, nàng mới thấy mệt lử, cô gái lầm lũi bước, tim đập rộn ràng, hơi thở hổn hển. Nàng nôn nả mong thấy ống khói của lữ quán Giao Mai, như mong gặp bạn thân, nhưng một con đường khác nữa băng ngang giữa lối đi và nàng phân vân không biết nên theo lối nào.
Thình lình, có tiếng vó ngựa lại gần. Mary đứng lại giữa đường, chờ đợi. Thoáng chốc, bóng ngựa rõ dần. Người cỡi ngựa có vẻ sợ khi thấy Mary, vội kêu lên:
- Ai đó? Có người phải không?
Rồi nhận ra Mary, ông ta kinh ngạc, hỏi:
- Một phụ nữ? Trời ơi! Bà đi đâu vậy?
Mary nắm cương ngựa:
- Xin ông chỉ giúp đường về, tôi đi lạc.
- Nhưng cô ở đâu? Tôi sẽ giúp cô.
Giọng ông ta chậm rãi, dịu dàng, Mary đoán là một người có thế lực.
- Thưa ông, tôi ở lữ quán Giao Mai.
Lỡ lời Mary chợt hối. Nghe tiếng đó, chắc ông giục ngựa dông thẳng mất?
Người kia im lặng. Mary càng hoảng. Nhưng ông ta lại cất giọng dịu dàng, không thay đổi:
- Vậy thì cô đang cách đó rất xa. Hiện đây là sườn đồi Hendra.
Ông nhìn chăm chăm cô gái, tiếp:
- Cô kiệt sức rồi. Làm sao đi nổi? Vả tôi cũng không nỡ bỏ cô ở đây một mình. Đây không xa làng mấy. Hãy theo tôi, lên ngựa. Đây! Tôi đỡ cô lên!
Mary tuân lời người lạ.
- Hãy về nhà tôi, sưởi ấm và làm khô giầy áo, ăn chút gì đỡ lòng rồi tôi đưa cô về lữ quán.
Giọng ông ta âu yếm nhưng trang nghiêm. Mary muốn quên hết, tuân theo để được nghỉ ngơi giây lát. Nàng cho rằng mình quả thật may mắn nên mới gặp được người khả kính như thế này. Khi ông ngước mắt nhìn lên, Mary thấy rõ mặt ông ta. Đôi mắt lạ lùng, trong như thủy tinh, như có khả năng soi thấu tâm can người khác. Tóc ông ta cũng trắng toát. Kỳ quá: ông ta đã già đâu? Khuôn mặt, giọng nói đều chứng tỏ ông ta còn trẻ. Nàng bối rối trong một thoáng khi nhận ra điều nầy: ông ta bị chứng bạch tạng.
Người lạ giở mũ, nghiêng mình, tự giới thiệu:
- Mặc dù cuộc gặp gỡ bất ngờ, tôi cũng cho cô biết: tôi là Francis Davey, linh mục phó xứ Altarnun.
Nàng thức giấc lúc hai giờ sáng. Nhìn ra cửa sổ, cô gái thấy chỉ có hai xe thôi. Cỡ sáu người tất cả. Những xe ngựa có vẻ kỳ bí và giống như xe tang. Bóng người di động trên sân lặng lẽ. Mary tưởng như đó là hình ảnh của một ảo mộng, nhưng đó là sự thật. Các xe đều trống rỗng, hàng hóa từ trong phòng được khuân ra, chất ngập xe.
Tại Helford, ít ai nói tới chuyện buôn lậu, mà có nói đến thì bằng nháy mắt và nụ cười khoan thứ, y như những chai rượu lậu chỉ là một xa xí phẩm vô hại chứ không phải là một tội ác đè nặng lương tâm. Đây khác hẳn: bọn bất lương đã nhúng tay vào máu người. Kẻ nào thấy lương tâm cắn rứt, thì sẽ lãnh một sợi dây tròng vào cổ như nàng đã thấy.
Tổ chức của Joss như một vòng xích sắt: không có khoen nào được yếu.
Bỗng Mary có cảm tưởng chuyện Jean đến quán hôm qua là có mục đích rõ ràng: hắn muốn báo trước cho Joss biết xe đến đêm nay. Mary chợt giận mình quá đỗi. Vậy mà nàng tưởng sẽ là bạn với Jean. Anh em họ cộng tác với nhau, rõ ràng quá. Chắc một điểm lương tâm vùng dậy, ngo ngoe trong chốc lát, xui anh ta quan tâm đến số phận Mary, khuyên nàng rời lữ quán, vì anh ta biết rõ cái gì đợi Mary.
Vậy mà cô lại vướng víu bà dì như vướng bận đứa con nhỏ còn ẵm ngửa, có bực không?
Các xe đã đầy nhóc hàng hóa. Chúng lặng lẽ lần lượt rời lữ quán.
Công việc đêm nay nhanh chóng hơn lần trước. Không có ai đột nhập bí mật vào như lần trước, hay trò chuyện cùng chủ quán.
Nhiều ngày tiếp theo, không có gì xảy ra. Những chuyến xe chạy ngang, lủi nhanh như một con bọ hung bị đuổi.
Một sáng kia trời lạnh, đá phủ ngập sân, mặt trời le lói giữa bầu trời trong sáng. Núi đá sừng sững màu xanh thẫm, các vũng lầy thường ẩm và nâu hôm nay cũng hóa trắng, lấp lánh ánh nắng chan hòa.
Gió thổi nhẹ. Mary bớt nản khi thấy mặt trời. Nàng mang áo quần đi giặt. Nước ấm và bọt xà phòng làm nàng thích thú, vừa hát vừa làm việc. Sáng nay, Joss lên ngựa ra đi.
Mỗi lần lão đi, Mary thấy nhẹ nhõm lạ.
Bỗng có tiếng gõ vội vàng nơi cửa kính. Mary quay lại nhìn, dì nàng tái xanh ra hiệu cho nàng vào nhà. Mary vội chùi tay vào tập dề, chạy vào cửa sau. Dì ôm lấy Mary run rẩy, lắp bắp không ra tiếng.
Mary trấn an dì:
- Có gì vậy, thưa dì? Đừng sợ, dì cứ thong thả nói. Dì ngồi xuống đi!
Nàng nói và dìu dì lại ghế. Dì Patience cắn môi, hất hàm chỉ ra cửa, thì thào:
- Ông Bassat đến! Ông đến với một người nữa! Chúa ơi! Ta làm sao đây, hở Mary?
Tiếng dì nghẹn trong cổ họng trong lúc tiếng gõ cửa cấp bách hơn. Dì nói như rên:
- Ông ấy tới làm chi hở trời? Ông ấy có tới đây bao giờ đâu? Chắc ông ấy nghe chuyện gì rồi. Mary! Làm sao bây giờ?
Mary suy nghĩ thật nhanh. Nếu đại diện pháp luật đến thì còn đợi gì nữa? Nàng sẽ kể hết, sẽ tố cáo không sót một chi tiết nhỏ. Nhưng dì nàng run rẩy nắm chặt tay nàng, van vỉ:
- Mary! Cháu hãy cứu dì! Cháu hãy thương dì. Nếu có chuyện gì xảy ra cho anh ấy, chắc dì chết mất! Cháu ơi! Mary...
Tiếng gõ cửa càng gấp.
Mary nói:
- Dì cứ yên tâm. Ta phải mở cửa cho họ vô nhưng dì đừng kể lôi thôi chi cả. Cứ nói chú đi vắng và dì không biết gì là yên. Có cháu đứng bên dì, đừng sợ.
Mary lại mở cửa. Hai người lại đứng ở cổng. Một người to lớn cưỡi con ngựa ô tuyệt đẹp, mặc áo choàng, mũ gần kín mắt, khoảng 50. Ông quát:
- Làm gì lâu lắc vậy? Coi bộ lữ quán nầy không muốn tiếp khách hàng phải không? Chủ nhân đâu?
Dì Patience đẩy cháu tới trước. Mary điềm tĩnh:
- Ông Merlyn đi vắng. Nếu ông muốn giải khát, xin mời hai ông vào, chúng tôi xin hầu.
- Hừ! Hết chỗ rồi sao đến đây giải khát? Ta muốn gặp chủ nhân. Bà nầy là vợ Merlyn phải không? Thế bao giờ chồng bà về?
- Dạ thưa ngài, nhà tôi đi từ sáng sớm và không biết có về kịp tối nay không?
- Phiền chưa! Tôi muốn nói chuyện với ông ta. Nầy, bà Joss! Dù chồng bà đã lừa tôi mua được lữ quán nầy, nhưng tôi cũng không đến đây vì chuyện đó nữa. Điều tôi không dung được là đất đai quanh đây của tôi bị mang tiếng vì chuyện bất lương xảy ra khắp vùng.
- Thưa, tôi không hiểu ngài muốn nói chi? Chúng tôi sống thật yên tĩnh. Có cháu tôi đây, biết rõ.
- Thôi! Tôi không ngu đâu. Tôi để ý lữ quán nầy lâu rồi. Lữ quán nầy làm cho dân quanh đây đến tận bờ bể đều khiếp đảm. Chớ giở trò đóng kịch với tôi.
Tên giúp việc nắm cương ngựa cho chủ nhân bước xuống. Ông Bassat nói tiếp:
- Nhân dịp nầy, ta cần xem xét khắp nhà. Bà đừng phản đối vô ích. Ta là quan tòa, có giấy khám nhà đây.
Ông vượt qua hai người, bước vào trong. Bà dì giơ tay ngăn, nhưng cháu bà khuyên:
- Dì nên để ông ấy khám. Ngăn lại chỉ tổ ông nổi giận lên.
- Chúa ơi!... Ông Bassat kêu to... Sao mà giống nhà mồ quá! Các người làm sao nên nỗi nầy? Xưa kia lữ quán xinh xắn bao nhiêu! Bàn ghế đâu?
Ông xông vào phòng khách và trỏ những vách ẩm ướt:
- Không bao lâu nữa mái nhà sẽ đổ ập xuống cho xem! Đời tôi, tôi chưa từng thấy sự bê bối đến mức nầy. Nào! Bà đưa tôi lên lầu coi.
Mặt tái xanh, dì Patience quay về phía cầu thang, đưa mắt tìm Mary để trấn tĩnh.
Mỗi góc nhà đều được ông Bassast ghé mắt nhìn. Ông giở từng cái bao cũ, quan sát đống khoai tây, miệng không ngớt quát tháo vì kinh tởm và giận dữ:
- Đây là lữ quán ư? Không có lấy một cái giường? Mọt ăn từ trên xuống dưới, bẩn thỉu hôi hám. Bà hóa câm rồi sao, bà Merlyn?
Dì Patience chỉ lắc đầu.
Ông Bassat quay sang cô gái:
- Vậy còn cô? Cô có gì nói không?
- Thưa, tôi mới đến đây. Mẹ tôi mất nên tôi đến ở với dì tôi. Dì tôi không được mạnh trong mình, thần kinh yếu.
- Sống ở đây thì thần kinh yếu là phải. Nào, cô dẫn tôi đến căn phòng kín mít dưới kia xem.
Dì Patience nhìn Mary trân trối. Mary gượng làm gan:
- Thưa, ông muốn nói căn phòng làm kho phải không ạ? Chú tôi đã khóa lại trước khi đi, và tôi không biết chìa khóa ông ấy để đâu hay mang theo.
- Vậy thì hỏi coi bà ấy có cất hay không?
Dì Patience lắc đầu lặng lẽ.
- Được! Không sao! Ta đập gãy cửa mà vào!
Nói xong, ông ra sân gọi người giúp việc.
Mary nắm tay dì thật chặt:
- Dì đừng run, người ta biết. Cứ phớt tỉnh. May ra...
Gã người làm cầm thanh sắt lăm lăm trong tay. Gã có vẻ hài lòng vì công tác chủ giao phó.
Mary hẳn sung sướng nếu không có dì bên cạnh. Lần đầu, nàng được ghé mắt vào căn phòng bí mật. Nhưng nếu họ khám phá ra cái gì thì hai dì cháu sẽ liên lụy, làm sao chứng minh là mình vô tội? Ai tin được nàng, khi dì nàng mù quáng bênh vực kẻ bất lương? Nàng bối rối đứng nhìn thanh sắt đập đùng đùng vào then cửa, tiếng động vang lên chát chúa.
Khá lâu cửa mới gãy nghe răng rắc và bật ra. Dì nàng kêu lên trong lúc ông Bassat đẩy bà qua một bên, lấy lối đi vào. Richards vuốt mồ hôi bò dài xuống mặt.
Căn phòng tràn bóng tối, mấy chồng bao sắp dọc theo cửa sổ đóng kín. Ông tòa hét:
- Đem cho ta mẩu nến coi! Y như đáy giếng.
Richards rút trong túi mẩu nến, bật diêm đốt lên rồi trao cho chủ. Bassat cầm giơ cao lên, bước tới.
Ông soi vào từng góc, trong lúc tất cả lặng im. Ông tỏ vẻ tức tối vì thất vọng:
- Lạ thật! Không có gì cả.
Ngoại trừ chồng bao trong góc, căn phòng hoàn toàn trống trơn. Bụi và mạng nhện chen nhau trải khắp phòng. Không bàn, không ghế, không tủ giường chi hết. Ống khói cũng bịt kín mít. Trên chồng bao, có sợi dây thừng.
- Được! Lần nầy tôi thua lão Merlyn. Nhưng có một ngày, hắn sẽ đền tội xứng đáng!
Ông quay ra. Gã Richards dắt ngựa lại cho chủ. Ông lại hỏi cô gái:
- Nầy, cô nên nghe tôi, dì cô chắc câm và không còn trí nhớ. Cô hiểu tiếng Anh chứ? Đừng giả vờ không biết gì cả về hành động cũng Merlyn. Hãy cho tôi biết có ai đến đây, ngày hoặc đêm?
Mary nhìn thẳng vào mắt nguời hỏi (lần thứ nhất vì dì nàng, nàng nói dối trơn tru):
- Quả thật chưa bao giờ tôi thấy ai đến, ngày cũng như đêm. Vả lại tôi ngủ say quá, vì vất vả cả ngày.
- Cô có biết vì sao phòng kia kín mít không ? Cô đã vào đó lần nào chưa?
- Dạ chưa và tôi không hiểu ý chủ nhân nổi, ông là một người kỳ lạ.
- Đúng, kỳ lạ lắm. Lữ quán mà không tiếp khách. Kỳ lạ đến nỗi dân quanh đây chỉ có thể yên giấc khi Merlyn bị treo cổ như cha hắn trước kia. Cô nói lại với hắn khi hắn trở về, nói y như tôi nói, nghe?
- Thưa ông, tôi sẽ nói đúng như ông dặn.
- Nầy, cô không ngán phải sống với một người khùng như bà Merlyn ư?
- Thưa ông, đó là em ruột mẹ tôi.
- Cô thông minh, nhanh trí lắm. Nhưng tôi không ao ước làm cha mẹ cô. Thà tôi thấy con tôi nằm dưới đất còn hơn để sống trong lữ quán Giao Mai với kẻ bất lương. À, quên, (ông đã bước ra rồi lại quay vào) cô có thấy Jean Merlyn, em ruột chủ quán không?
- Thưa ông, chưa. Tôi chưa hề nghe đến tên nầy.
- Thật ư? Tốt lắm. Thôi, chào cô!
Đợi cho người ngựa khuất sau đồi, Mary mới nói với dì, giọng hằn học trong lúc bà ngồi bệt xuống thở hổn hển:
- Thôi, hết nguy hiểm rồi. Dì nên bình tĩnh lại. Dì và chú đã qua mặt ông tòa mà khỏi bóp kèn. Tài quá!
Nàng rót nước uống một hơi, mất hết cả dịu dàng, kiên nhẫn. Nàng đã nói dối để cứu kẻ ác, trong lúc nàng chỉ muốn khai toạc hết sự thật. Nàng đã thấy sợi dây. Nàng muốn Joss bị treo cổ bằng chính sợi dây mà hắn ta đã dùng để treo cổ kẻ lạ trong đêm... Nàng muốn... Nhưng vì dì nàng, nàng đã không dám tố cáo kẻ bất lương. Thật ghê tởm! Mary này mà là đồng lõa của quân gian ư?
Uống đến cốc nước thứ hai, Mary lại nhớ mình còn nói dối để cứu Jean, tên trộm ngựa. Nhục nhã, xấu hổ biết ngần nào?
Trưa đó, Joss trở về, được vợ đón ở cửa bằng một tràng dài, tiếng nọ dính tiếng kia. Mary ngồi yên ngoài vườn. Nàng thấy chẳng việc gì phải chen vô.
Thỉnh thoảng, Joss gặng hỏi lại đôi câu, giọng bẳn gắt. Rồi ông ta đến cửa sổ, vẫy nàng, mặt cau có:
- Về đây! Kể đầu đuôi nghe coi. Một con vẹt còn nói rõ hơn dì cô.
Mary bình tĩnh kể lại câu chuyện, trừ chuyện ông tòa hỏi Jean. Sau cùng Mary nhắc lại lời ông tòa dặn nàng.
Joss im lặng nghe. Chờ Mary dứt lời, lão đá cái ghế ra tận cửa, gầm to:
- Đồ hèn! Nó làm gì có quyền xét nhà? Trát tòa gì! Bịa! Vậy mà hai con ngu cũng để nó vô. Sáng nay mà có tao coi, nó sẽ về North Hill mà ngay vợ nó cũng không nhận ra và nó sẽ không còn ra người nữa. Đồ chó má! Nó có quyền sinh sát với ai kìa, chớ tao thì... còn lâu. Rồi nó sẽ van lạy tao cho mà coi. Chà! Hai con ngu sợ dữ, há? Có ngày tao đốt nhà nó cho coi...
Joss la to đến nỗi Mary tưởng tai mình điếc luôn. Nhưng cô gái không sợ tí ti nào. Cô biết đó là cách để Joss đỡ tức, không có gì nguy hiểm. (Chỉ khi nào con người nầy thì thầm mới đáng gớm). Có thể lão đang sợ cũng nên? Mary lấy làm thú vị khi nghĩ đến điều nầy.
- Lấy gì ăn coi! Ta còn phải đi có việc đây. Patience! Câm họng lại, bà khóc làm ta điên thêm. Mary cô khá lắm. Ta biết ơn cô đó!
- Bộ chú tưởng tôi làm vậy vì chú chắc?
Mary nhìn thẳng vào Joss, hỏi.
- Vì ai thì vì, ta không cần biết. Cắt miếng bánh coi! Đừng nói nhiều.
Xong bữa ăn, Joss ra chuồng ngựa. Mary tưởng lão cỡi ngựa đi, nhưng lão lại thôi, ra bếp, leo rào và đi bộ, băng qua đồng hoang phía sau, tiến về phía núi đá Telbo-Hough. Nàng do dự, không biết có nên thực hiện điều dự tính chăng?
Sau cùng, Mary cởi tạp dề, khoác khăn len, chạy theo Joss.
Đến đỉnh đồi, cô nấp sau tảng đá, chờ Joss đi khuất thật xa mới dám theo sau. Cô rẽ cỏ dại, bước tràn trên đá sỏi. Nàng nghi là sự có mặt ông tòa bất ngờ làm cho Joss thay đổi chương trình. Bây giờ đang xế trưa, rất dễ cho nàng theo dõi lão. Đất hơi khô, đá đông cứng, nhưng Mary đã có kinh nghiệm qua những bận đi dạo trước.
Sau vài dặm, cuộc theo dõi bắt đầu khó hơn. Nàng phải giữ khoảng cách khá xa mà Joss thì lại đi nhanh.
Khỏi núi đá Codda, Merlyn rẽ qua hướng đông, lão chỉ là một chấm đen nhỏ giữa đồng hoang bao la nâu sẫm, dù lão vốn cao lớn.
Chốc chốc, Mary phải dừng chân, lấy tay gạt mồ hôi trán. Trót theo khá xa, Mary không thể bỏ cuộc, ít ra phải khám phá được điều gì mới bỏ công chứ ?
Nàng dẫm trên mặt đất nâu và đầy sình lầy. Nước ngấm vào giầy vừa lạnh vừa nặng. Váy nàng bị rách lai vài chỗ và cũng ngấm nước.
Đã qua đoạn đường nguy hiểm. Phía trước, Joss mờ mờ băng qua đám cỏ gai rồi khuất sau tảng đá đen ngòm, mất hút.
Giữa bụi rậm và bùn, Mary mất dấu Joss. Phần sợ sa lầy nen nàng phải vòng lên trên và trượt chân mấy bận. Càng lúc đá lởm chởm thêm. Vài con dê rừng nghe tiếng động thò đầu nhìn Mary. Mặt trời núp sau những đám mây từ hướng tây tụ lại. Đồng hoang đổi màu. Im lặng một cách dễ sợ.
Khi Mary lên đến ngọn núi, xung quanh toàn màu xám. Từ các vũng bùn, những làn hơi trắng mờ nhẹ bay lên.
Trời như sắp tối. Joss biến mất tăm. Mary tuyệt vọng. Đành quay về thôi, nếu chần chờ, đêm nay nàng sẽ lạc giữa núi đá hay đồng hoang mất. Quả mình ngu, Mary thầm nghĩ.
Trời tháng chạp mau tối, hoàng hôn trên đồng rất ngắn, đêm xuống mau không có giai đoạn chuyển tiếp. Mà sương mù càng nguy hiểm: y như một hàng rào trắng dầy, che phủ mặt, cách năm tấc, có khi không thấy chi hết.
Mary chạy bổ xuống núi, bóng tối như đuổi gấp sau lưng. Ngay dưới chân nàng là nguồn sông Fowey. Phải tránh nơi đó, vì mặt đất quanh đó rất dễ lún sâu.
Vòng phía trái, Mary thận trọng mỗi bước chân.
Khi cô xuống đến đồng bằng, bỏ sau lưng ngọn Brow Willy uy nghi, cô độc thì sương mù và bóng đêm đã ngự trị khắp nơi, làm nàng không sao tìm ra phương hướng.
Nàng cố trấn tĩnh tìm lối về nhà. Quấn chặt khăn quàng và kéo váy lên cao, Mary bước nhanh. Bỗng nàng bị con suối chắn ngang, lúc đi đâu có suối? Nàng biết mình lạc đường rồi nhưng vẫn can đảm lội qua, nước lên tới gối. Nàng cho là mình rất may, vì suối không sâu hơn. Mặt đất cao dần, Mary yên lòng bước tới.
Đường như dài bất tận, dẫn đến một ngã rẽ về phía phải. Cỏ mọc um tùm chứng tỏ ít người qua lại nhưng cũng có vết xe ngựa.
Bớt lo lắng, nàng mới thấy mệt lử, cô gái lầm lũi bước, tim đập rộn ràng, hơi thở hổn hển. Nàng nôn nả mong thấy ống khói của lữ quán Giao Mai, như mong gặp bạn thân, nhưng một con đường khác nữa băng ngang giữa lối đi và nàng phân vân không biết nên theo lối nào.
Thình lình, có tiếng vó ngựa lại gần. Mary đứng lại giữa đường, chờ đợi. Thoáng chốc, bóng ngựa rõ dần. Người cỡi ngựa có vẻ sợ khi thấy Mary, vội kêu lên:
- Ai đó? Có người phải không?
Rồi nhận ra Mary, ông ta kinh ngạc, hỏi:
- Một phụ nữ? Trời ơi! Bà đi đâu vậy?
Mary nắm cương ngựa:
- Xin ông chỉ giúp đường về, tôi đi lạc.
- Nhưng cô ở đâu? Tôi sẽ giúp cô.
Giọng ông ta chậm rãi, dịu dàng, Mary đoán là một người có thế lực.
- Thưa ông, tôi ở lữ quán Giao Mai.
Lỡ lời Mary chợt hối. Nghe tiếng đó, chắc ông giục ngựa dông thẳng mất?
Người kia im lặng. Mary càng hoảng. Nhưng ông ta lại cất giọng dịu dàng, không thay đổi:
- Vậy thì cô đang cách đó rất xa. Hiện đây là sườn đồi Hendra.
Ông nhìn chăm chăm cô gái, tiếp:
- Cô kiệt sức rồi. Làm sao đi nổi? Vả tôi cũng không nỡ bỏ cô ở đây một mình. Đây không xa làng mấy. Hãy theo tôi, lên ngựa. Đây! Tôi đỡ cô lên!
Mary tuân lời người lạ.
- Hãy về nhà tôi, sưởi ấm và làm khô giầy áo, ăn chút gì đỡ lòng rồi tôi đưa cô về lữ quán.
Giọng ông ta âu yếm nhưng trang nghiêm. Mary muốn quên hết, tuân theo để được nghỉ ngơi giây lát. Nàng cho rằng mình quả thật may mắn nên mới gặp được người khả kính như thế này. Khi ông ngước mắt nhìn lên, Mary thấy rõ mặt ông ta. Đôi mắt lạ lùng, trong như thủy tinh, như có khả năng soi thấu tâm can người khác. Tóc ông ta cũng trắng toát. Kỳ quá: ông ta đã già đâu? Khuôn mặt, giọng nói đều chứng tỏ ông ta còn trẻ. Nàng bối rối trong một thoáng khi nhận ra điều nầy: ông ta bị chứng bạch tạng.
Người lạ giở mũ, nghiêng mình, tự giới thiệu:
- Mặc dù cuộc gặp gỡ bất ngờ, tôi cũng cho cô biết: tôi là Francis Davey, linh mục phó xứ Altarnun.
Hết chương 5