Thông tin truyện
Tác giả : Minh Quân & Mỹ LanQuốc gia : Việt Nam Thể loại : Kinh dị Số chương : 14 Người đăng : Hồ Vũ Tuấn Anh
Đọc truyện
Serve 1
Mary chợt tỉnh giấc. Gió từ hướng Tây thổi mạnh và nắng yếu ớt chiếu vào phòng. Tiếng cửa gỗ lay động đã đánh thức cô gái. Nhìn màu trời nàng biết chắc đã hơn tám giờ rồi. Nhìn xuống sân, Mary thấy cửa chuồng ngựa mở rộng và có dấu giầy mới in lên bùn. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm khi biết chú Joss đã ra ngoài. Mary vội vàng mở rương lấy cái váy dày, cái tạp dề màu và đôi giầy gỗ thô mà nàng vẫn thường dùng ở trại. Mười phút sau, nàng xuống bếp, rửa mặt. Dì Patience bước ra khỏi vòng rào dành nuôi gà, túm trong tạp dề mấy quả trứng. Dì đưa ra cho Mary thấy: - Dì tin là cháu sẽ thích khi có trứng để ăn sáng nay. Chiều qua, dì thấy cháu mệt quá không ăn được gì cả. Dì để dành cho cháu lọ mứt. Nom dì tươi tỉnh, mặc dù đôi mắt thâm quầng chứng tỏ đêm qua thao thức, lo âu. Mary nghĩ rằng chỉ khi nào có mặt chú Joss dì mình mới sợ sệt như đứa trẻ phạm lỗi. Khi ông ta đi vắng, dì dễ vui vì một điều nhỏ nhặt như luộc cho cháu cái trứng gà. Hai người cùng tránh nhắc lại việc đêm qua. Không nhắc đến cả tên Joss nữa, lão đi đâu, làm gì nàng không cần biết, chỉ thấy vui là đủ. Mary biết dì không muốn bàn đến việc hiện tại. Bà có vẻ... sợ cháu hỏi. Mary chỉ kể những khó khăn mấy năm sau cùng ở Helford, về cái chết của mẹ. Mary thấy dì có vẻ cố sức mà không thể chú ý đến lời nàng. Những năm dài lo sợ bên cạnh chồng làm bà mất nhiều khả năng cần thiết. Dường như đã có một điều gì đó khủng khiếp xảy đến với dì khiến bà trở nên ngớ ngẫn, gần như trì độn? Suốt sáng đó, Mary phụ dì trong công việc hằng ngày và dạo xem gần hết Lữ quán. Ngôi nhà đầy bóng tối với những hành lang dài và những căn phòng kỳ lạ. Có một lối riêng biệt vào quầy rượu ở một bên nhà. Căn phòng tuy trống rỗng nhưng không khí bên trong nặng nề, chứng tỏ có một sự nhộn nhịp vừa diễn ra ở đây: mùi rượu nồng hăng, hơi người ấm, những vết bẩn còn mới trên những dãy ghế đen đủi. Trong toàn lữ quán, có lẽ chỉ phòng nầy là sống động nhất. Các phòng khác hình như bị bỏ quên, không ai lui tới. Phòng khách ở cạnh cổng vào cũng trống vắng như đã nhiều tháng không ai đặt chân vào và sưởi ấm ở lò. Những phòng trên lầu càng tệ hơn, một phòng dùng làm kho. Nhiều thùng chất sát vách, trên phủ mấy tấm da ngựa rách nát vì chuột gặm. Phòng đối diện, khoai tây và củ cải chất đống trên cái giường hư nát. Mary đoán rằng phòng nàng trước kia cũng như các phòng nầy. Giường tủ và bàn chải tóc chắc do dì nàng mới trang hoàng cho cháu. Mary tránh đến gần phòng dì và Joss ở hành lang bên kia. Phía dưới giàn phòng nầy, có một hành lang song song với hành lang trên và ở đầu đối diện với gian bếp có một phòng khóa kín. Mary vòng ra sân, nhìn vào cửa sổ nhưng cửa sổ được che kín bằng một tấm ván đóng chặt vào đó nên nàng không thấy được gì. Ngôi nhà và các dãy phụ chiếm bốn cạnh sân. Giữa là một bồn cỏ và hồ nước. Trước mặt lữ quán là con đường trải dài vô tận, băng qua những cánh đồng hoang ướt át vì mưa. Quanh tầm mắt nàng chỉ có những ngọn đồi đen đủi và ao tù. Lữ quán là ngôi nhà duy nhất trong vùng, dù là một ngôi nhà xám chứa đầy bí ẩn và không có gì tỏ ra hiếu khách. Phía tây là những ngọn núi đá sừng sựng, vài ngọn có cỏ mọc lưa thưa dưới ánh nắng yếu ớt của mùa đông cỏ vẫn úa vàng. Nhiều ngọn núi khác chỉ thấy lởm chởm đá. Chốc chốc, ánh nắng bị một đám mây che khuất, tạo thành một bóng đen dài trên đồng hoang. Màu sắc cũng thay đổi: khi thì đồi núi tím thẫm như dấy mực, khi thì tia nắng xuyên qua mây làm ngọn đồi trở thành vàng, nâu. Nhiều ngọn khác chìm trong bóng tối. Khung cảnh thay đổi liền liền. Phía đông ánh nắng ban trưa rực rỡ và đồng hoang xem yên tĩnh như một sa mạc cát, trong khi phía tây những ngọn đồi bị chế ngự bởi mùa đông buốt, thỉnh thoảng tối sầm do một đám mây. Không khí lạnh và thoang thoảng hương thơm tinh khiết của miền núi. Thật là một sự mới lạ với Mary, vì nàng chỉ quen với khung cảnh êm ả của Helford, với những rào dậu và những cây to che chở cho nên dù vào đông gió cũng không dữ dội. Mũi đất cao che chở cho những người sống dưới bóng nó, chỉ mình dòng sông xanh biếc cuồn cuộn, bọt tung trắng xóa, nom có khi hơi dữ tợn mà thôi. Tuy nhiên, giữa hoang vu, man dã, đáng ghét, Mary cảm thấy trong không khí có sự kiêu hùng kỳ lạ, cuốn hút lấy nàng làm nàng như bị thách đố và không muốn lùi bước. Thốt nhiên, nàng cảm thấy thích thú, ưa mạo hiểm, thấy hăng hái trong lòng. Má nóng bừng, mắt ngời sáng, tóc tung bay trong gió lộng, Mary thu hồi được nghị lực, niềm tin một cách bất ngờ. Mary thở mạnh, hít không khí ngọt ngào mát mẻ tinh khiết vào hai buồng phổi. Nàng đến bên hồ, mở vòi và ngâm hai tay xuống nước. Nước lạnh rợi, trong veo. Nàng vốc một ngụm đưa lên uống. Tuy nước ở đây khác xa nước nàng đã uống trong bếp, một vị chan chát quyện trong lưỡi, nàng thấy thích thú và đã khát ngay. Mary như được bồi bổ cả thể xác lẫn tinh thần. Nàng cảm thấy đói và nghĩ đến dì. Mary ăn món thịt trừu hầm củ cải một cách ngon lành. Lần thứ nhất, sau 24 giờ chịu đựng Mary cảm thấy phấn khởi, bình tĩnh, can đảm. Mary gợi chuyện: - Dì ơi, tại sao chú Joss lại làm Lữ quán Giao Mai ở một nơi hoang vắng như thế này? Sự tấn công bất ngờ và thẳng thắn của cô cháu làm dì lúng túng. Bà cắn môi, đỏ mặt giây lâu mới trả lời, ấp úng: - Thì... thì con thấy đó. Nơi nầy thuận tiện quá, quốc lộ chính từ Bắc đến Nam. Xe qua lại hai bận trong tuần. Họ đi từ Bodmin, Truno đến Launceston. Cũng như con đi hôm qua vậy mà. Họ du lịch, làm ăn, buôn bán... - Đúng thế, nhưng tại sao họ không ghé Lữ quán Giao Mai? - Họ dừng lại chớ! Họ đến quầy rượu để giải khát. Chúng ta có đông khách hàng. - Sao dì có thể nói thế được? Phòng khách bỏ trống, phòng ngủ dùng làm kho, chứa đầy chuột kia mà! Cháu thấy tận mắt, cháu đã nghỉ ở lữ quán nhỏ hơn đây. Trong làng cháu cũng có một cái. Mẹ cháu bạn với bà chủ nên cháu có đến dó một lần. Trên lầu có hai phòng nhưng được trang hoàng tử tế cho khách. Dì Patience im lặng giây lâu, lại cắn môi: - Chú Joss không thích ai ở lại. Chú ghét ồn ào. Vả lại ở một nơi vắng vẻ như chỗ nầy có thể nguy hiểm cho mình... - Cháu không tin. Ghét ồn ào mà lại mở Lữ quán? Sợ nguy hiểm mà lại chọn một nơi vắng vẻ để làm ăn? Mà mở lữ quán để làm gì nếu không cho khách lương thiện ghé qua đêm? Dì nên thành thật với cháu. Lữ quán nầy được mở với mục đích gì? Và làm sao dì chú sống được nếu không tiếp khách? - Dì đã nói rồi, chúng ta có khách hàng mà! (Giọng dì trở nên nóng nảy). Nhiều bữa, quầy rượu chật khách. - Hôm qua, bác phu xe nói với cháu là những người tự trọng không hề ghé lại đây. Họ sợ! Mary gằn từng tiếng. Dì Patience tái mặt, mắt dì lộ vẻ hốt hoảng. Dì nuốt nước bọt, thì thào: - Chú Joss nóng như lửa, cháu thấy đó, chú không muốn ai xen vô chuyện riêng. - Nhưng thưa dì, ai dòm ngó chi công việc của một ông chủ quán lương thiện? Dù cho chú nóng tính, đâu đến nỗi người ta phải chạy trốn? Đây không phải là lý do chính đáng. Dì không cãi được. Mary tìm cách khác khơi chuyện: - Tại sao dì đến đây? Mẹ con vẫn ngỡ là dì ở Bodmin. - Dì gặp chú ở Bodmin nhưng không ở đó. Chú mua Lữ quán nầy của ông Bassat. Quán bỏ trống nhiều năm về trước, chú con muốn ở đây cho tới già, tới chết. Hồi xưa, ổng đi đây đó dữ lắm. Qua tận Mỹ Châu cơ. - Chú chọn nơi hoang vu nầy để dưỡng già, kể cũng lạ. - Đây là nơi sinh trưởng của chú đấy chớ, cách đây vài dặm thôi. Em trai chú, thằng Jean vẫn ở trong căn nhà tổ phụ. Lâu lâu, nó có đến đây, nhưng chú Joss không ưa em Jean của chú. - Ông Bassat có đến đây không, thưa dì? - Không. - Sao vậy dì? - Có sự hiểu lầm. Chú mua ngôi nhà nầy qua sự trung gian của người bạn. Ông Bassat chỉ biết chủ mới là chú khi chú dọn về đây. Ông ấy không bằng lòng. - Can gì đến ông ấy? Bán thì người ta mua chứ? - Xưa kia lúc còn ở Trewartha, nghĩa là lúc trẻ, chú con nổi tiếng hung tợn. Không phải lỗi ông, dòng họ Merlyn toàn man rợ thế cả. Thằng Jean còn tệ hơn chú nhiều. Nhưng ông Bassat nghe lời thiên hạ thêm thắt nên ghét chú con. Ông tức giận khi biết chú con mua Lữ quán của ông. Chỉ có thế thôi, con ạ! Dì tựa lưng vào ghế, có vẻ mệt nhọc vì bị chất vấn. Mắt bà như van lơn cháu đừng cật vấn chi thêm. Nhưng Mary lạnh lùng tìm hiểu: - Dì ơi! Dì hãy nói thật cho cháu biết, hãy nhìn cháu đây. Căn phòng bí mật ở đầu hành lang có liên lạc gì với những xe cộ dừng lại ban đêm không? Trễ quá rồi: Mary chợt hối nhưng đã muộn. Dì nàng xanh ngắt, môi run rẩy, mắt lạc thần, bà đưa hai tay che cổ, sợ hãi tột cùng. Mary quì xuống cạnh dì, tay quàng lấy cổ dì, ôm chặt bà và hôn lên tóc bà. Nàng run rẩy: - Dì tha lỗi cho con? Con vụng về và quá tò mò. Con xấu hổ lắm, xin dì quên những gì con vừa hỏi. Dì Patience im lặng, tay ôm lấy mặt. Mary vuốt ve và hôn tay dì. Rồi bà bỏ tay che mặt ra, mắt bớt vẻ kinh hoàng, bà nắm tay cháu, thều thào: - Mary! Dì không che dấu cháu, nhưng sự thật có nhiều điều dì cũng không biết hết. Nhưng vì cháu là cháu dì, con của người chị yêu quí, dì phải báo trước cho cháu biết... Bà nhìn nhớn nhác như sợ Joss hiện ra bất ngờ siết cổ mình: - Có những điều xảy ra tại đây mà dì không bao giờ dám nghĩ đến hay nói đến. Những chuyện đáng sợ... Chú Joss liên lạc với nhiều người kỳ lạ và lối mua bán cũng rất lạ. Có đêm, họ đến đây. Từ cửa sổ phòng con trên cổng chính, con có thể nghe họ gõ cửa. Chú con sẽ mở cửa và đưa họ đi dọc theo hành lang đến căn phòng bí mật. Họ trò chuyện rất lâu và rút lui trước khi trời sáng. Mary! Khi họ đến, con nhớ cứ nằm yên, lấy gối bịt tai lại. Nếu con hỏi đến chuyện họ, con biết được một nửa câu chuyện của họ, tóc con sẽ bạc như dì đây. Con sẽ phải nhỏ lệ mỗi đêm và run giọng khi cất tiếng. Tuổi trẻ và sự vô tư của con sẽ biến mất như dì vậy. Đừng quên lời dì... Dì đứng lên xô ghế ra. Mary nghe tiếng chân dì lên thang một cách uể oải, mệt nhọc và dì nằm lì suốt buổi trong phòng. Mary ngồi bên cạnh chiếc ghế không. Xuyên qua khung cửa kính, ánh mặt trời tắt sau ngọn đồi xa nhất và mầu xám của trời đông lại bao phủ khắp Lữ quán Giao Mai. Joss vắng mặt cả tuần, Mary có dịp dạo khắp vùng. Nàng chả bận rộn gì nhiều ngoài việc giúp dì làm bếp và lau dọn trong nhà. Nàng rong chơi tự do, sau bữa ăn trưa. Dì nàng thì không rời khỏi khuôn viên nhà bếp và chuồng gà. Bà không ưa đi dạo. Mary được mặt trời hướng dẫn và nhờ sự hiểu biết thông thường của một nông dân, nên rất vững lòng. Đồng hoang còn man rợ hơn Mary tưởng. Rộng như sa mạc, nó chạy dài từ đông sang tây. Vài ngọn đồi cao hiện ra ở chân trời. Nàng không biết giới hạn của nó ra sao, cho đến một ngày nọ nàng đi về hướng tây, leo qua núi đá cao nhất sau lữ quán nàng chợt thấy biển cả lấp lánh dưới nắng. Nhưng đây là vùng yên lặng, vắng vẻ đến rợn người. Trên núi, những khối đá tựa vào nhau tạo nên những hình thù quái dị, nom như những tên lính do Thượng Đế cắt đặt đứng canh tại đó. Vài khối đá khác trông như một bộ bàn ghế, cũng có những khối khác nhỏ hơn, nom hiền lành như một gã khổng lồ nằm che hết các bụi gai. Có phiến phẳng, có phiến dài, có phiến nhẵn như mặt bàn thờ, ngửa mặt chờ cuộc tế. Những đàn trừu hoang sống tại núi đá và quạ, và diều hâu. Đồi là tổ ấm của những sinh vật cô đơn. Đàn bò ăn cỏ trên đồng hoang, tìm đất cứng mà đến, chúng tránh những đám cỏ ngon lành nhưng thật ra không phải là một bãi cỏ mà là một vũng lầy đáng sợ. Khi gió nổi lên, có tiếng ngân vang như tiếng hú trong các hốc đá, khi lại rên rỉ bi ai. Mary không biết gió từ hướng nào ào đến, nó trườn đi như một con vật vô hình trên mặt cỏ và cỏ rung động. Nó lướt trên những vũng nước mưa động trong hốc đá, nước gợn sóng lên. Trên những phiến đá, sự im lặng ngự trị, im lặng kỳ bí mênh mông. Như là sự im lặng của một kỷ nguyên khác, thời chưa có vết chân người trên quả đất. Sự yên tĩnh lạ lùng, đe dọa, không phải là sự yêu tĩnh được vây bọc trong tình thương và sự chở che của Chúa. Mary băng qua đồng, leo lên núi đá, ngồi nghỉ trong một hốc đá, cạnh nguồn nước. Lòng hồi hộp, nàng nghĩ đến thời thơ ấu của Joss Merlyn, đến đóa hoa dại bị gió dữ cuốn đi trên bụi gai cằn cỗi. Hôm khác, nàng lại băng đồng qua hướng đông, đến một ngọn đồi bao bọc bởi đồng hoang, không được khai khẩn. Đồng hoang nầy lại xuôi xuống một đầm lầy to, sâu, giữa có một dòng suối con, tiếng suối reo róc rách. Bên kia đầm lầy là một khối đá sừng sững. Người ta cảm tưởng như có một bàn tay xuất hiện từ dưới đầm lầy, đưa mấy ngón lên trời, bề mặt như được đẽo trong đá hoa cương, màu xám buồn buồn. Đó là ngọn Kilmar Tor. Joss Merlyn đã sinh ra tại núi đá nầy và Matthew, em ông đã chết đuối trong đầm kia. Nàng tưởng tượng đến một gã trai trẻ băng qua đồng, miệng huýt sáo vui vẻ, bên tai có nhạc suối phụ họa... Rồi, trời sập tối quá nhanh làm anh ta không kịp đề phòng... Anh ta dừng lại, do dự một giây rồi chặc lưỡi bước càn. Được mươi bước thì anh ta bị lún xuống, bùn ngập gối, anh ta vừa chửi thề vừa cố sức rút chân lên nhưng quá muộn, càng lúc càng bị lún sâu hơn. Anh quờ quạng bám vào một đám cỏ, nhưng vô ích. Anh thét lên thất thanh. Một con quạ đen bay ngang đầu anh, là là trước mặt anh kêu lên ai oán. Rồi nó vỗ cánh dồn dập, bay xa trong khoảnh khắc. Vài ngọn cỏ lay động và yên tĩnh lại bao trùm cảnh vật... Mary quay lưng về phía Kilmar. Nàng chạy tràn qua khỏi đồng, vấp lên, ngã xuống giữa đám cỏ gai và đá rắn. Nàng chỉ ngừng lại để thở khi vũng lầy mất hút sau đồi. Chao! Nàng đã đi xa hơn nàng muốn. Đường về dài dằng dặc. Mary thực sự vững tâm khi thấy ống khói của Lữ quán sừng sững ngang tầm mắt. Và nàng hồi hộp khi thấy chuồng ngựa mở toang, ngựa đứng bên trong. Ông ta đã về! Mary se sẽ mở cửa, nhưng cánh cửa cọ vào sân gạch kêu lên. Joss hiện ra ở đầu hành lang, tay áo xắn cao, tay cầm chiếc ly và cái khăn. Hình như Joss đang vui? Mary thấy ông ta cầm ly vẫy nàng, giọng ồn ào: - Ủa? Thấy tôi mà cô không chạy trốn ư? Cô có nhớ chú Joss không? Mary cố mỉm cười chào ông ta và hỏi cuộc du hành của ông có tốt đẹp chăng. - Tốt đẹp khỉ khô! Tôi chỉ cần kiếm tiền thôi. Nếu cô muốn biết, tôi trả lời đây. Tôi có vào cung điện thăm Đức Vua! Đắc ý về câu pha trò của mình, ông ta cười khanh khách. Patience hiện ra phía sau ông. Bà cũng mỉm cười, song nụ cười của bà tắt tức thì khi chồng bà ngừng lại. Mary nhận thấy dì mình đã trở về với nỗi lo sợ thường xuyên. Nàng lặng lẽ toan rút lui thì Joss gọi giật nàng lại: - Nghe đây! Chiều nay đừng có trốn trên đó. Có việc làm ở quầy rượu, nghe chưa? Cô biết hôm nay thứ mấy không? Mary chưa mất ý thức về thời gian. Nàng đến đây hôm thứ hai, vậy hôm nay là thứ bảy. Nàng hiểu chú Joss muốn bảo gì. Sẽ có khách đến Lữ quán Giao Mai. Họ đến từng người một. Họ băng qua sân, yên lặng và rất nhanh như không muốn ai trông thấy, tuy họ đi trong bóng tối. Họ đi dọc bờ thành đến bên cổng gỗ, gõ cửa và được đưa vào quầy rượu. Có người mang theo đèn lồng nhưng ánh sáng như làm phiền họ nên họ lấy áo khoác che lại. Vài người đi ngựa, vó ngựa khua đều trong đêm phá tan bầu không khí yên tĩnh của Lữ quán Giao Mai. Kế đó, có tiếng mở cửa chuồng ngựa và tiếng trò truyện thì thào. Có người mũ che khuất mặt, áo choàng cao kín cằm. Họ có vẻ mờ ám, bí mật. Trong Lữ quán đèn sáng rực rọi qua cái cửa sổ mở rộng. Thường, cửa sổ đóng kín mịt. Càng về khuya, sự huyên náo càng tăng. Có tiếng cười, tiếng hát, tiếng hò hét. Điều đó chứng tỏ rằng họ đã qua sự dè dặt lúc chưa đặt chân vào bên trong. Vào đến quầy rượu, ngồi giữa bạn bè, miệng phì phào thuốc lá, tay bưng cốc rượu tràn sóng sánh, họ thôi thận trọng. Đám người tụ họp quanh Joss thật sự kỳ lạ. Mary đứng trong quầy, khuất sau hàng chai và ly nên nàng dễ quan sát họ mà họ không ngờ. Họ ngồi dạng chân trên ghế hay vắt vẻo trên băng; người dựa vào tường, người thì bách bộ loanh quanh, vài người lại nằm xoài ra đất. Hầu hết họ đều bẩn thỉu, quần áo rách nát, tóc rối bù, móng tay cáu ghét. Đúng là bọn tha phương cầu thực, đầu trộm đuôi cướp. Trong số chúng, có một lão trại chủ phải bán nông trại không phải vì không khai thác nổi mà vì nổi tiếng lưu manh, một gã chăn cừu đã nổi lửa đốt máy xay của chủ, một tên buôn ngựa bị đuổi khỏi vùng Devon. Một tên khác làm thợ giầy ở Launceston, nhưng thực sự, chuyên tiêu thụ đồ ăn trộm. Lại còn có gã, trước đây vốn là phó thuyền trưởng nhưng lại đánh đắm tàu. Tên nhỏ thó đang gặm móng tay, làm nghề đánh cá, nghe đâu có cả một chiếc vớ đầy vàng cất kỹ trong ống khói, không biết do đâu. Vài tên ở các vùng lân cận, kẻ từ xa. Một gã nom đần độn, và gã nữa có một vệt đỏ bầm trên mặt, suốt từ khi vào nhà, gã không ngừng nắm vệt đó giật giật liên hồi làm Mary phát nôn, muốn ngất đi. Cảm giác nầy, cộng chung với khói thuốc, mùi rượu, hơi người bẩn nằm ngồi la liệt làm cô càng khó thở. Được cái, nàng không phải đến cạnh họ, nàng chỉ rửa ly và rót đầy rượu, nàmg đứng khuất sau quầy, cố thu mình càng kín càng hay. Joss đích thân bưng rượu mời khách hàng, lão đi khắp phòng, cười với tên nầy, pha trò với gã nọ, vỗ vai hay ra dấu với kẻ kia. Thoạt thấy Mary, có tên cười ngất, tên thì nhìn cô bằng ánh mắt xoi mói, tên thì rùn vai, nhếch mép, và trong thoáng chốc chúng quên mất cô gái, coi nàng là một cô cháu vợ của Joss, đến giúp việc như đã được nghe giới thiệu. Bọn trai tráng có vẻ muốn trò chuyện với cô song lại sợ tia mắt của Joss, sợ lão nổi giận bất ngờ chăng. Mary thấy nhẹ nhõm vì được yên thân. Nàng sẽ xấu hổ, nhục nhã nếu biết được ý nghĩ bọn nầy. Dì nàng không ra mặt, song Mary thấy bóng dì sau cửa, một lần nàng bắt gặp tia nhìn sợ sệt của dì. Đêm như vô tận, bóng người trước mặt Mary lờ mờ, có một lúc bọn họ như nhăn nhó, miệng rộng, tóc bù xù, răng trắng nhởn làm nàng khiếp đảm. Họ uống đến nỗi nằm lăn xuống đất, sùi bọt mép. Bọn còn lại tụ tập quanh một gã nhỏ thó, bẩn thỉu đến từ Redruth. Lão hát nhiều bài hát tục tĩu để làm vui cả bọn. Tiếng cười như muốn rung cả mái nhà song được hãm lại trước vẻ hầm hầm của Joss. Mary thấy có sự bất thường, man rợ trong những tiếng cười đó, nó từa tựa như tiếng con vật lạ rống lên giữa vách đá tối om. Tên bán hàng rong đem gã đần ở Dozmary ra làm hề. Gã này say khướt. Chúng đặt gã lên bàn, bắt gã lặp lại bài hát giữa trận cười quái ác. Gã đàn ông được tán thưởng, giật giật vết bầm trên mặt kêu lên ăng ẳng, dễ sợ. Mary nói với chú Joss: - Tôi chịu hết nổi, chú cho tôi ra khỏi đây. Chú lo cho họ được rồi. Joss lấy tay gạt mồ hôi trán, trừng mắt. Lão vẫn tỉnh táo, dù uống liên miên: - Chịu không nổi hả? Cô là thứ gì chớ? Công chúa hả? Nghe đây. Mầy được yên ổn sau quầy như thế này thì đáng lẽ ra mầy nên quì lạy tao mới phải. Nếu mầy không là cháu vợ tao thì... hà hà... giờ nầy mầy rách như miếng giẻ rồi, con ngốc ạ! Rồi lão cười hô hố, lấy tay bẹo má cô gái: - Nhưng thôi được, cho mày de. Cũng gần nửa đêm rồi, ta không cần mầy nữa. Nhớ khóa cửa kỹ, dì cô còn trùm kín đầu nữa kia. Lão hạ giọng xuống, cúi gần tai Mary, rồi thình lình nắm tay cô bẻ quặt ra sau làm cô gái đau nhói, kêu lên một tiếng. - Tốt! Đó là cách cảnh cáo để mầy nhớ giữ mình. Câm miệng thì sẽ yên thân. Lão thôi cười, nhíu mày quan sát cô như đọc được tất cả ý nghĩ cô: - Cô không trì độn như dì cô, đây là một điều tai hại. Cô có vẻ thông minh và tò mò, khó làm cho cô sợ. Nhưng mà...óc tò mò của cô có thể bóp bẹp như bánh đa. Thôi! Đi đi kẻo ta ngứa mắt. Lão quay lưng lại, vì sự khinh bỉ của Mary lộ rõ trong mắt cô làm lão điên tiết lên. Lão vứt cái ly trong tay xuống đất, thét to: - Lột quần áo thằng ngốc ra, cho nó về với mẹ nó! Trời tháng 11 sẽ làm nó mát mẻ. Ta hết muốn thấy trò nhạt nhẽo của nó rồi! Tên hàng rong và cả bọn làm theo lời Joss, đồng loạt quay sang đè nghiến tên ngốc vùng Dozmary xuống, khiến tên nầy hoảng sợ kêu rống lên. Mary chạy bay ra khỏi đó, lên phòng, hai tay bịt tai lại mà tiếng cười man rợ, khả ố vẫn dội vang trong hành lang lạnh lẽo vọng đến tai nàng. Mary buồn nôn dữ dội, nằm xoải xuống giường. Có tiếng cười ồn ào dưới sân rồi một tia sáng từ cái đèn lồng rọi ngay cửa sổ. Mary đến kéo cửa sổ lại. Nàng chợt thấy một bóng đen loã lồ, run rẩy đang rên rỉ. Sau lưng, một đám người do Joss dẫn đầu đang hò hét, tay cầm roi vụt vun vút đuổi theo. Mary thay áo vội vàng và chui vào giường, trùm chăn kín bưng. Dù nhắm mắt, bưng tai, Mary vẫn thấy khuôn mặt bầm tím của tên ngốc đáng thương, vẫn nghe tiếng gào thét yếu ớt của gã khi trợt chân rơi xuống hố. Cô gái bàng hoàng, nửa thức, nửa ngủ. Nhiều hình ảnh loạn xạ nhảy múa trong đầu nàng. Có lúc cô như lạc giữa đồng hoang, song lại vẫn tỉnh táo mà thấy ánh trăng xuyên qua cửa sổ. Tiếng cười, nói xa dần và tắt hẳn cùng với tiếng vó ngựa, tiếng bánh xe. Nàng thiếp ngủ. Đột nhiên, Mary choàng tỉnh. Có tiếng động, càng lúc càng rõ hơn, song khi nàng vùng dậy thì chỉ nghe tiếng tim mình đập rộn trong lồng ngực. Rồi có tiếng vật gì đang bị kéo lê sềnh sệch dưới sàn nhà. Nàng khẽ kéo cửa sổ nhìn xuống sân, năm cái xe ngựa cả thẩy, ba có cái mui che kín, hai cái để trần, ngay trước cổng. Ngựa thở phì phò ra khói. Bọn đàn ông tụ tập quanh xe. Lão thợ giầy đứng ngay cửa sổ nàng nói chuyện với tên lái ngựa. Một tên vuốt ve bờm ngựa. Một gã khác nhảy lên xe, cố sức đỡ một vật nặng. Tuy chưa quen biết, nhờ ánh trăng nàng nhận rõ mặt từng tên. Họ có vẻ nôn nả vì trăng sáng quá. Những vật nặng được kéo lê một cách hối hả, dọc theo hành lang đến cái phòng các cửa đều đóng kín bí mật. Mary chợt hiểu: những kiện hàng xe chở đến được khuân vào đó. Căn cứ vào sự nhọc mệt của ngựa, Mary biết chúng đã tải đồ từ xa đến. Còn một xe có mui không đưa hàng vào quán mà lại chuyển sang xe khác, hàng đủ cỡ: kiện to, kiện nhỏ, kiện tròn, kiện dài được bọc kín trong rơm hay giấy. Gã phu xe nhảy phóc lên ngựa, ra roi chạy liền khi chất đầy hàng. Mary ngạc nhiên thấy lúc nãy thì họ ầm ĩ, náo loạn mà giờ thì chăm chỉ yên lặng. Ngay cả ngựa cũng thế. Joss Merlyn đi cạnh tên bán hàng rong, không mũ, không áo choàng dù trời lạnh buốt, tay áo xắn cao. Joss cất tiếng trầm trầm: - Mọi việc êm xuôi chứ? Tên phu xe gật đầu, giơ tay vẫy. Cả bọn lục tục rời Lữ quán, sau khi chia tay nhau những gói hàng đủ loại. Một tên chất lên ngựa cả khối hàng hóa mà còn mang kè kè một bọc lớn bên mình. Xe và ngựa rẽ theo nhiều hướng, mất dạng trong giây lát. Lúc này trong sân chỉ còn lại ba người: Joss, một tên lạ mặt và gã hàng rong. Họ cùng vào quầy rượu và đóng sập cửa lại. Mary chỉ còn nghe tiếng đồng hồ tích tắc từ hành lang. Ba tiếng bong bong buông rời rạc. Mary nghe ớn lạnh cả người. Nàng quàng khăn lên vai cho ấm nhưng vẫn không tài nào ngủ được. Nàng thoáng hiểu là Joss ở trong một tổ chức buôn lậu lớn. Lữ quán Giao Mai quả ở vào một vị trí thuận tiện, Joss mua nó chắc vì lý do nầy. Lữ quán sừng sững, cô độc trên quốc lộ từ Bắc vào Nam. Thật dễ dàng cho một tên gan dạ có óc tổ chức, điều khiển những chuyến hàng từ bờ bể đến phụ lưu sông Tamar. Lữ quán vừa là chỗ nghỉ chân đồng thời cũng là nơi chất chứa hàng lậu. Joss đã dùng đủ mọi hạng người: bọn du mục, bọn hàng rong, thủy thủ... Có bản lĩnh, đủ hung bạo làm cho bọn thủ hạ tuân theo răm rắp, Joss lại vừa có đủ thông minh để che mắt chính quyền chăng? Joss là thủ lãnh chăng? Chắc chắn thế. Mary thầm nghĩ, nếu không, bọn thô lỗ kia làm thế nào qua mặt được pháp luật? Nếu một quan tòa quan tâm đến bọn buôn lậu, chắc ông ta không thể quên Lữ quán Giao Mai. Mary cau mày, cắn môi suy tính. Nếu không vì dì, nàng đã tức khắc rời Lữ quán để đi tố cáo Joss ngay. Song dì nàng trung thành với chồng quá đỗi làm cho cô gái thấy khó xử thêm. Nàng nhớ giọng nói sợ sệt, ánh mắt kinh hoàng của dì. Buôn lậu là một điều phi pháp nhưng có đến nỗi làm dì sợ đến mức đó chăng? Hay còn gì mờ ám hơn? Mary thấy cần có sự khuyên bảo, nhưng biết nhờ ai? Nàng chỉ là một cô gái. Giá là trai, sẽ dễ dàng biết bao. Nàng sẽ cướp một con ngựa chở dì trên yên phi nước đại trở về Helford, quên mọi sự. Hoặc nàng sẽ đánh nhau với chúng một trận và... sẽ thắng. Hoặc nàng sẽ đi tố cáo ở một nơi gần nhất... Cô gái 21 tuổi ngồi thừ, không có khí giới nào khác hơn là bộ óc. Cô biết nếu lão mà hay những ý định trong đầu cô, lão sẽ bóp nát cô ngay, không do dự. Mary đã thề rằng nàng không bao giờ sợ hãi hay là tỏ ra sợ hãi trước Joss hay bất cứ ai. Nàng chỉ sợ một lần trong đời: khi con bò điên đuổi nàng ở Manaccan thôi. Ý nghĩ đó làm Mary bình tĩnh. Nàng sẽ sàng thay quần áo, mang vớ nhưng không mang giầy. Nàng lướt ra hành lang, nắm tay vịn cần thang, bước xuống. Tiếng đồng hồ giúp nàng can đảm lên. Cửa quầy rượu được mở và có tiếng người trong bếp, tiếng nói thì thào, ánh sáng xuyên qua hành lang sâu hun hút. Nàng toan quay lên, nhưng sự tò mò thắng ý định ấy. Nàng đi dọc theo hành lang, nép sát vách. Nàng đã thấy rõ sự bừa bãi bên trong quầy rượu: ly cốc ngổn ngang, cả mảnh vỡ do Joss đập ly ban nãy. Mary không thấy họ ngồi đâu. Im lặng rất lâu. Thốt nhiên có giọng cất lên, át tiếng tim nàng đang dồn dập: - Không! Merlyn! Anh đừng hòng biến tôi thành quỷ dữ. Tôi thề chấm dứt liên lạc với anh từ hôm nay. Anh bảo tôi nhúng tay vào tội ác tày trời. Đừng hòng! Giọng gã đàn ông cao lên run rẩy, hình như gã mất hết tự chủ rồi. Joss Merlyn nói nhỏ hơn, nàng không nghe gì nhưng tiếng cười khả ố của tên bán hàng rong thì không sao quên được. Người đàn ông đợi tiếng cười thô bỉ kia dứt rồi cất tiếng: - Treo cổ? Tôi sợ gì cái đó? Đời tôi chả còn nghĩa lý gì. Nhưng lương tâm tôi còn và tôi sợ Thượng Đế toàn năng. Tôi có thể giết địch thủ trong một cuộc chiến đấu rồi nhận hình phạt. Nhưng giết người vô tội, nhất là giết đàn bà, con trẻ thì khác nào đi thẳng địa ngục? Có tiếng xô ghế, tiếng đập thình xuống bàn, tiếng chửi thề. Lần nầy, Joss la lên: - Đâu dễ vậy! Đừng giỡn mặt với tao chớ! Mày đã dính chặt vào vụ nầy rồi. Vứt mẹ cái lương tâm của mày đi. Không còn lùi được đâu, trễ quá rồi. Thật tao đoán không sai. Từ đầu, tao đã ngờ cái bộ vó trưởng giả, lương thiện của mày. Mà thôi... Joss đổi giọng, ra lệnh cho tên hàng rong: - Harry! Đóng cửa, gài then cẩn thận đi nào! Có tiếng đấm đá, tiếng bàn ghế gãy đổ. Cửa đóng sầm một tiếng và giọng cười khả ố của Harry làm Mary dựng tóc gáy: - Bây giờ ta cù hắn như tên Sam lúc nãy nghe? Cũng tội nghiệp nếu ta lột áo quần hắn, nhưng biết làm sao? Hắn tự chuốc vạ vào thân mà! Tôi được lãnh cái đồng hồ tay hắn chứ, anh Joss? - Câm mồm lại. Hãy làm những gì ta bảo: đứng yên chỗ cửa kính kia và đâm thẳng vào tim nó nếu nó tính trốn. Quay sang người đàn ông lúc nãy, Joss cất giọng giễu cợt: - Thưa ông thư ký hành chánh, sao ông điên bất ngờ thế, hở? Ông tưởng đây là thành phố Truno ư? Ông muốn gì? Muốn quất ngựa đi thẳng về Bodmin rồi sáng mai dẫn quan tòa và nửa tiểu đội lính bao vây lữ quán Giao Mai, hử? Người đàn ông thở hổn hển. Ông ta bị thương chăng? Tiếng ông ta đứt quãng: - Hãy hoàn thành tội ác của các anh ngay đi nếu các anh muốn thế. Phần tôi, tôi thề không tố cáo các anh và cũng không ngăn cản, nhưng tôi không hợp tác với các anh được nữa. Im lặng một lúc, nàng nghe thấy Merlyn cười khẩy: - Coi chừng! Đã có kẻ nói hệt giọng anh và chỉ 5 phút sau hắn được treo cách mặt đất cỡ hơn tấc rưỡi. Tôi có hỏi hắn gần mặt đất như thế hắn vừa lòng chưa, vì hắn là nông dân không ưa xa rời đất. Tiếc thay, hắn hết trả lời được, tuy rằng phải mất đến 7 phút và phần tư giây hắn mới ngưng thở. Mary nghẹn thở, tay chân như đeo chì, nàng sợ mình sẽ ngất đi, vội vàng lần bước dọc theo hành lang. Không, nàng không thể ngất nơi nầy, lộ mất. Hai gối run rẩy như chực khuỵu xuống. Đâu nàng choáng váng, nhưng tai vẫn nghe giọng Joss: - Harry, về đi! Để mình tao xử tội gã nầy. Mầy hết việc rồi. Lấy ngựa của nó mà chuồn ngay, rồi thả ngựa bên vùng Camelford. Tao trị tội nó được! Lần đến phòng khách, Mary quỵ xuống ngất đi, nhưng rồi nàng tỉnh lại rất mau. Nàng chống tay ngồi lên, lắng nghe tiếng ngựa, tiếng chửi thề và cả hai thứ tiếng xa dần trong bóng tối. Nàng không biết làm cách gì cứu nạn nhân. Đến Dozmary kêu cứu chăng? Khi nàng trở về, ông ta đã tắt thở rồi. Mà chắc gì nàng cầu cứu được? Có thể dân vùng lân cận đây đều là thuộc hạ của Merlyn. Dì Patience ư? Vô ích. Cầu trời cho người lạ, chỉ còn tự cứu bằng cách nhận lời hợp tác với quân gian bằng không, phải đánh nhau với chủ quán dù ông ta chắc cầm cái bại trong tay. Mary không có khẩu súng hay con dao, nếu làm cho Joss bị thương để cứu được người lạ, nàng không do dự...nhưng... Bỗng nàng nghe có tiếng động khẽ, rồi sàn lầu kêu răng rắc. Bước chân sẽ sàng tiếp tục. Ai? Dì nàng thì nhất định là chết khiếp trong phòng, tên Harry đã đi xa. Joss đang thi hành tội ác trong kia. Thế thì ai đang lên lầu? Hắn ta đột nhập vào đây từ bao giờ? Kẻ thù hay bạn của Joss? Kẻ lạ mặt chắc không muốn chạm trán cùng bọn buôn lậu? Có thể, ông ta sẽ giúp nạn nhân? Tia hy vọng lóe sáng trong tim cô gái. Thình lình cửa quầy rượu bật mở làm Mary hốt hoảng lùi vào nấp sau cửa. Sàn nhà kêu lên răng rắc. Chao ơi! Tim Mary nhói lên. Qua khe cửa, nàng thấy hai bóng người tiến lại nhau: Joss và một kẻ lạ mặt. Gã đó đặt tay lên vai Joss, hỏi: - Thế nào? - Tùy anh quyết định chứ không phải tôi. Anh chỉ việc bảo tôi. Ngay sau đó, Mary không thể nhìn thấy mà cũng không nghe gì thêm vì kẻ lạ mặt đã kéo tuột Joss vào quầy rượu. Có tiếng của đóng rồi lặng lẽ trở lại. Hình như có một lúc nàng nghe tiếng kêu yếu ớt thoảng vào tai. Tiếng kêu cứu của nạn nhân chăng? Rồi như có tiếng chân ra cổng chính. Đánh bạo, cô gái lại sát cửa quầy rượu áp tai nghe ngóng: bóng tối và sự im lặng phủ tràn. Không, chả còn ai bên trong cả. Nàng đẩy cửa bước vào. Không khí lành lạnh khiến nàng rợn cả người. Căn phòng trống trơn. Nhưng hình như không phải vậy. Dưới ánh trăng mờ mờ, nàng thấy rõ có một vật lay động dài ngoằng đong đưa từ trần nhà. Thoạt đầu, Mary nghĩ đến một con rắn buông mình xuống, nhưng khi định thần nhìn kỹ, cô gái chợt rợn người vì khiếp đảm. Một sợi dây thòng lọng.Hết phần mở đầu
Chọn chương để xem
Serve 1
Mary chợt tỉnh giấc. Gió từ hướng Tây thổi mạnh và nắng yếu ớt chiếu vào phòng. Tiếng cửa gỗ lay động đã đánh thức cô gái. Nhìn màu trời nàng biết chắc đã hơn tám giờ rồi.
Nhìn xuống sân, Mary thấy cửa chuồng ngựa mở rộng và có dấu giầy mới in lên bùn. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm khi biết chú Joss đã ra ngoài. Mary vội vàng mở rương lấy cái váy dày, cái tạp dề màu và đôi giầy gỗ thô mà nàng vẫn thường dùng ở trại.
Mười phút sau, nàng xuống bếp, rửa mặt.
Dì Patience bước ra khỏi vòng rào dành nuôi gà, túm trong tạp dề mấy quả trứng. Dì đưa ra cho Mary thấy:
- Dì tin là cháu sẽ thích khi có trứng để ăn sáng nay. Chiều qua, dì thấy cháu mệt quá không ăn được gì cả. Dì để dành cho cháu lọ mứt.
Nom dì tươi tỉnh, mặc dù đôi mắt thâm quầng chứng tỏ đêm qua thao thức, lo âu. Mary nghĩ rằng chỉ khi nào có mặt chú Joss dì mình mới sợ sệt như đứa trẻ phạm lỗi. Khi ông ta đi vắng, dì dễ vui vì một điều nhỏ nhặt như luộc cho cháu cái trứng gà.
Hai người cùng tránh nhắc lại việc đêm qua. Không nhắc đến cả tên Joss nữa, lão đi đâu, làm gì nàng không cần biết, chỉ thấy vui là đủ.
Mary biết dì không muốn bàn đến việc hiện tại. Bà có vẻ... sợ cháu hỏi. Mary chỉ kể những khó khăn mấy năm sau cùng ở Helford, về cái chết của mẹ. Mary thấy dì có vẻ cố sức mà không thể chú ý đến lời nàng. Những năm dài lo sợ bên cạnh chồng làm bà mất nhiều khả năng cần thiết. Dường như đã có một điều gì đó khủng khiếp xảy đến với dì khiến bà trở nên ngớ ngẫn, gần như trì độn?
Suốt sáng đó, Mary phụ dì trong công việc hằng ngày và dạo xem gần hết Lữ quán.
Ngôi nhà đầy bóng tối với những hành lang dài và những căn phòng kỳ lạ. Có một lối riêng biệt vào quầy rượu ở một bên nhà. Căn phòng tuy trống rỗng nhưng không khí bên trong nặng nề, chứng tỏ có một sự nhộn nhịp vừa diễn ra ở đây: mùi rượu nồng hăng, hơi người ấm, những vết bẩn còn mới trên những dãy ghế đen đủi.
Trong toàn lữ quán, có lẽ chỉ phòng nầy là sống động nhất.
Các phòng khác hình như bị bỏ quên, không ai lui tới. Phòng khách ở cạnh cổng vào cũng trống vắng như đã nhiều tháng không ai đặt chân vào và sưởi ấm ở lò. Những phòng trên lầu càng tệ hơn, một phòng dùng làm kho. Nhiều thùng chất sát vách, trên phủ mấy tấm da ngựa rách nát vì chuột gặm. Phòng đối diện, khoai tây và củ cải chất đống trên cái giường hư nát.
Mary đoán rằng phòng nàng trước kia cũng như các phòng nầy. Giường tủ và bàn chải tóc chắc do dì nàng mới trang hoàng cho cháu.
Mary tránh đến gần phòng dì và Joss ở hành lang bên kia.
Phía dưới giàn phòng nầy, có một hành lang song song với hành lang trên và ở đầu đối diện với gian bếp có một phòng khóa kín. Mary vòng ra sân, nhìn vào cửa sổ nhưng cửa sổ được che kín bằng một tấm ván đóng chặt vào đó nên nàng không thấy được gì.
Ngôi nhà và các dãy phụ chiếm bốn cạnh sân. Giữa là một bồn cỏ và hồ nước.
Trước mặt lữ quán là con đường trải dài vô tận, băng qua những cánh đồng hoang ướt át vì mưa. Quanh tầm mắt nàng chỉ có những ngọn đồi đen đủi và ao tù. Lữ quán là ngôi nhà duy nhất trong vùng, dù là một ngôi nhà xám chứa đầy bí ẩn và không có gì tỏ ra hiếu khách.
Phía tây là những ngọn núi đá sừng sựng, vài ngọn có cỏ mọc lưa thưa dưới ánh nắng yếu ớt của mùa đông cỏ vẫn úa vàng. Nhiều ngọn núi khác chỉ thấy lởm chởm đá.
Chốc chốc, ánh nắng bị một đám mây che khuất, tạo thành một bóng đen dài trên đồng hoang. Màu sắc cũng thay đổi: khi thì đồi núi tím thẫm như dấy mực, khi thì tia nắng xuyên qua mây làm ngọn đồi trở thành vàng, nâu. Nhiều ngọn khác chìm trong bóng tối.
Khung cảnh thay đổi liền liền. Phía đông ánh nắng ban trưa rực rỡ và đồng hoang xem yên tĩnh như một sa mạc cát, trong khi phía tây những ngọn đồi bị chế ngự bởi mùa đông buốt, thỉnh thoảng tối sầm do một đám mây. Không khí lạnh và thoang thoảng hương thơm tinh khiết của miền núi. Thật là một sự mới lạ với Mary, vì nàng chỉ quen với khung cảnh êm ả của Helford, với những rào dậu và những cây to che chở cho nên dù vào đông gió cũng không dữ dội. Mũi đất cao che chở cho những người sống dưới bóng nó, chỉ mình dòng sông xanh biếc cuồn cuộn, bọt tung trắng xóa, nom có khi hơi dữ tợn mà thôi.
Tuy nhiên, giữa hoang vu, man dã, đáng ghét, Mary cảm thấy trong không khí có sự kiêu hùng kỳ lạ, cuốn hút lấy nàng làm nàng như bị thách đố và không muốn lùi bước. Thốt nhiên, nàng cảm thấy thích thú, ưa mạo hiểm, thấy hăng hái trong lòng. Má nóng bừng, mắt ngời sáng, tóc tung bay trong gió lộng, Mary thu hồi được nghị lực, niềm tin một cách bất ngờ.
Mary thở mạnh, hít không khí ngọt ngào mát mẻ tinh khiết vào hai buồng phổi.
Nàng đến bên hồ, mở vòi và ngâm hai tay xuống nước. Nước lạnh rợi, trong veo. Nàng vốc một ngụm đưa lên uống. Tuy nước ở đây khác xa nước nàng đã uống trong bếp, một vị chan chát quyện trong lưỡi, nàng thấy thích thú và đã khát ngay.
Mary như được bồi bổ cả thể xác lẫn tinh thần.
Nàng cảm thấy đói và nghĩ đến dì.
Mary ăn món thịt trừu hầm củ cải một cách ngon lành. Lần thứ nhất, sau 24 giờ chịu đựng Mary cảm thấy phấn khởi, bình tĩnh, can đảm. Mary gợi chuyện:
- Dì ơi, tại sao chú Joss lại làm Lữ quán Giao Mai ở một nơi hoang vắng như thế này?
Sự tấn công bất ngờ và thẳng thắn của cô cháu làm dì lúng túng. Bà cắn môi, đỏ mặt giây lâu mới trả lời, ấp úng:
- Thì... thì con thấy đó. Nơi nầy thuận tiện quá, quốc lộ chính từ Bắc đến Nam. Xe qua lại hai bận trong tuần. Họ đi từ Bodmin, Truno đến Launceston. Cũng như con đi hôm qua vậy mà. Họ du lịch, làm ăn, buôn bán...
- Đúng thế, nhưng tại sao họ không ghé Lữ quán Giao Mai?
- Họ dừng lại chớ! Họ đến quầy rượu để giải khát. Chúng ta có đông khách hàng.
- Sao dì có thể nói thế được? Phòng khách bỏ trống, phòng ngủ dùng làm kho, chứa đầy chuột kia mà! Cháu thấy tận mắt, cháu đã nghỉ ở lữ quán nhỏ hơn đây. Trong làng cháu cũng có một cái. Mẹ cháu bạn với bà chủ nên cháu có đến dó một lần. Trên lầu có hai phòng nhưng được trang hoàng tử tế cho khách.
Dì Patience im lặng giây lâu, lại cắn môi:
- Chú Joss không thích ai ở lại. Chú ghét ồn ào. Vả lại ở một nơi vắng vẻ như chỗ nầy có thể nguy hiểm cho mình...
- Cháu không tin. Ghét ồn ào mà lại mở Lữ quán? Sợ nguy hiểm mà lại chọn một nơi vắng vẻ để làm ăn? Mà mở lữ quán để làm gì nếu không cho khách lương thiện ghé qua đêm? Dì nên thành thật với cháu. Lữ quán nầy được mở với mục đích gì? Và làm sao dì chú sống được nếu không tiếp khách?
- Dì đã nói rồi, chúng ta có khách hàng mà! (Giọng dì trở nên nóng nảy). Nhiều bữa, quầy rượu chật khách.
- Hôm qua, bác phu xe nói với cháu là những người tự trọng không hề ghé lại đây. Họ sợ!
Mary gằn từng tiếng.
Dì Patience tái mặt, mắt dì lộ vẻ hốt hoảng. Dì nuốt nước bọt, thì thào:
- Chú Joss nóng như lửa, cháu thấy đó, chú không muốn ai xen vô chuyện riêng.
- Nhưng thưa dì, ai dòm ngó chi công việc của một ông chủ quán lương thiện? Dù cho chú nóng tính, đâu đến nỗi người ta phải chạy trốn? Đây không phải là lý do chính đáng.
Dì không cãi được. Mary tìm cách khác khơi chuyện:
- Tại sao dì đến đây? Mẹ con vẫn ngỡ là dì ở Bodmin.
- Dì gặp chú ở Bodmin nhưng không ở đó. Chú mua Lữ quán nầy của ông Bassat. Quán bỏ trống nhiều năm về trước, chú con muốn ở đây cho tới già, tới chết. Hồi xưa, ổng đi đây đó dữ lắm. Qua tận Mỹ Châu cơ.
- Chú chọn nơi hoang vu nầy để dưỡng già, kể cũng lạ.
- Đây là nơi sinh trưởng của chú đấy chớ, cách đây vài dặm thôi. Em trai chú, thằng Jean vẫn ở trong căn nhà tổ phụ. Lâu lâu, nó có đến đây, nhưng chú Joss không ưa em Jean của chú.
- Ông Bassat có đến đây không, thưa dì?
- Không.
- Sao vậy dì?
- Có sự hiểu lầm. Chú mua ngôi nhà nầy qua sự trung gian của người bạn. Ông Bassat chỉ biết chủ mới là chú khi chú dọn về đây. Ông ấy không bằng lòng.
- Can gì đến ông ấy? Bán thì người ta mua chứ?
- Xưa kia lúc còn ở Trewartha, nghĩa là lúc trẻ, chú con nổi tiếng hung tợn. Không phải lỗi ông, dòng họ Merlyn toàn man rợ thế cả. Thằng Jean còn tệ hơn chú nhiều. Nhưng ông Bassat nghe lời thiên hạ thêm thắt nên ghét chú con. Ông tức giận khi biết chú con mua Lữ quán của ông. Chỉ có thế thôi, con ạ!
Dì tựa lưng vào ghế, có vẻ mệt nhọc vì bị chất vấn. Mắt bà như van lơn cháu đừng cật vấn chi thêm. Nhưng Mary lạnh lùng tìm hiểu:
- Dì ơi! Dì hãy nói thật cho cháu biết, hãy nhìn cháu đây. Căn phòng bí mật ở đầu hành lang có liên lạc gì với những xe cộ dừng lại ban đêm không?
Trễ quá rồi: Mary chợt hối nhưng đã muộn. Dì nàng xanh ngắt, môi run rẩy, mắt lạc thần, bà đưa hai tay che cổ, sợ hãi tột cùng. Mary quì xuống cạnh dì, tay quàng lấy cổ dì, ôm chặt bà và hôn lên tóc bà. Nàng run rẩy:
- Dì tha lỗi cho con? Con vụng về và quá tò mò. Con xấu hổ lắm, xin dì quên những gì con vừa hỏi.
Dì Patience im lặng, tay ôm lấy mặt. Mary vuốt ve và hôn tay dì. Rồi bà bỏ tay che mặt ra, mắt bớt vẻ kinh hoàng, bà nắm tay cháu, thều thào:
- Mary! Dì không che dấu cháu, nhưng sự thật có nhiều điều dì cũng không biết hết. Nhưng vì cháu là cháu dì, con của người chị yêu quí, dì phải báo trước cho cháu biết...
Bà nhìn nhớn nhác như sợ Joss hiện ra bất ngờ siết cổ mình:
- Có những điều xảy ra tại đây mà dì không bao giờ dám nghĩ đến hay nói đến. Những chuyện đáng sợ... Chú Joss liên lạc với nhiều người kỳ lạ và lối mua bán cũng rất lạ. Có đêm, họ đến đây. Từ cửa sổ phòng con trên cổng chính, con có thể nghe họ gõ cửa. Chú con sẽ mở cửa và đưa họ đi dọc theo hành lang đến căn phòng bí mật. Họ trò chuyện rất lâu và rút lui trước khi trời sáng. Mary! Khi họ đến, con nhớ cứ nằm yên, lấy gối bịt tai lại. Nếu con hỏi đến chuyện họ, con biết được một nửa câu chuyện của họ, tóc con sẽ bạc như dì đây. Con sẽ phải nhỏ lệ mỗi đêm và run giọng khi cất tiếng. Tuổi trẻ và sự vô tư của con sẽ biến mất như dì vậy. Đừng quên lời dì...
Dì đứng lên xô ghế ra. Mary nghe tiếng chân dì lên thang một cách uể oải, mệt nhọc và dì nằm lì suốt buổi trong phòng.
Mary ngồi bên cạnh chiếc ghế không. Xuyên qua khung cửa kính, ánh mặt trời tắt sau ngọn đồi xa nhất và mầu xám của trời đông lại bao phủ khắp Lữ quán Giao Mai.
Joss vắng mặt cả tuần, Mary có dịp dạo khắp vùng. Nàng chả bận rộn gì nhiều ngoài việc giúp dì làm bếp và lau dọn trong nhà. Nàng rong chơi tự do, sau bữa ăn trưa. Dì nàng thì không rời khỏi khuôn viên nhà bếp và chuồng gà. Bà không ưa đi dạo.
Mary được mặt trời hướng dẫn và nhờ sự hiểu biết thông thường của một nông dân, nên rất vững lòng. Đồng hoang còn man rợ hơn Mary tưởng. Rộng như sa mạc, nó chạy dài từ đông sang tây. Vài ngọn đồi cao hiện ra ở chân trời. Nàng không biết giới hạn của nó ra sao, cho đến một ngày nọ nàng đi về hướng tây, leo qua núi đá cao nhất sau lữ quán nàng chợt thấy biển cả lấp lánh dưới nắng. Nhưng đây là vùng yên lặng, vắng vẻ đến rợn người. Trên núi, những khối đá tựa vào nhau tạo nên những hình thù quái dị, nom như những tên lính do Thượng Đế cắt đặt đứng canh tại đó. Vài khối đá khác trông như một bộ bàn ghế, cũng có những khối khác nhỏ hơn, nom hiền lành như một gã khổng lồ nằm che hết các bụi gai. Có phiến phẳng, có phiến dài, có phiến nhẵn như mặt bàn thờ, ngửa mặt chờ cuộc tế. Những đàn trừu hoang sống tại núi đá và quạ, và diều hâu. Đồi là tổ ấm của những sinh vật cô đơn. Đàn bò ăn cỏ trên đồng hoang, tìm đất cứng mà đến, chúng tránh những đám cỏ ngon lành nhưng thật ra không phải là một bãi cỏ mà là một vũng lầy đáng sợ.
Khi gió nổi lên, có tiếng ngân vang như tiếng hú trong các hốc đá, khi lại rên rỉ bi ai. Mary không biết gió từ hướng nào ào đến, nó trườn đi như một con vật vô hình trên mặt cỏ và cỏ rung động. Nó lướt trên những vũng nước mưa động trong hốc đá, nước gợn sóng lên. Trên những phiến đá, sự im lặng ngự trị, im lặng kỳ bí mênh mông. Như là sự im lặng của một kỷ nguyên khác, thời chưa có vết chân người trên quả đất. Sự yên tĩnh lạ lùng, đe dọa, không phải là sự yêu tĩnh được vây bọc trong tình thương và sự chở che của Chúa.
Mary băng qua đồng, leo lên núi đá, ngồi nghỉ trong một hốc đá, cạnh nguồn nước. Lòng hồi hộp, nàng nghĩ đến thời thơ ấu của Joss Merlyn, đến đóa hoa dại bị gió dữ cuốn đi trên bụi gai cằn cỗi.
Hôm khác, nàng lại băng đồng qua hướng đông, đến một ngọn đồi bao bọc bởi đồng hoang, không được khai khẩn. Đồng hoang nầy lại xuôi xuống một đầm lầy to, sâu, giữa có một dòng suối con, tiếng suối reo róc rách.
Bên kia đầm lầy là một khối đá sừng sững. Người ta cảm tưởng như có một bàn tay xuất hiện từ dưới đầm lầy, đưa mấy ngón lên trời, bề mặt như được đẽo trong đá hoa cương, màu xám buồn buồn. Đó là ngọn Kilmar Tor. Joss Merlyn đã sinh ra tại núi đá nầy và Matthew, em ông đã chết đuối trong đầm kia. Nàng tưởng tượng đến một gã trai trẻ băng qua đồng, miệng huýt sáo vui vẻ, bên tai có nhạc suối phụ họa... Rồi, trời sập tối quá nhanh làm anh ta không kịp đề phòng... Anh ta dừng lại, do dự một giây rồi chặc lưỡi bước càn. Được mươi bước thì anh ta bị lún xuống, bùn ngập gối, anh ta vừa chửi thề vừa cố sức rút chân lên nhưng quá muộn, càng lúc càng bị lún sâu hơn. Anh quờ quạng bám vào một đám cỏ, nhưng vô ích. Anh thét lên thất thanh. Một con quạ đen bay ngang đầu anh, là là trước mặt anh kêu lên ai oán. Rồi nó vỗ cánh dồn dập, bay xa trong khoảnh khắc. Vài ngọn cỏ lay động và yên tĩnh lại bao trùm cảnh vật...
Mary quay lưng về phía Kilmar. Nàng chạy tràn qua khỏi đồng, vấp lên, ngã xuống giữa đám cỏ gai và đá rắn. Nàng chỉ ngừng lại để thở khi vũng lầy mất hút sau đồi. Chao! Nàng đã đi xa hơn nàng muốn. Đường về dài dằng dặc.
Mary thực sự vững tâm khi thấy ống khói của Lữ quán sừng sững ngang tầm mắt. Và nàng hồi hộp khi thấy chuồng ngựa mở toang, ngựa đứng bên trong.
Ông ta đã về!
Mary se sẽ mở cửa, nhưng cánh cửa cọ vào sân gạch kêu lên. Joss hiện ra ở đầu hành lang, tay áo xắn cao, tay cầm chiếc ly và cái khăn. Hình như Joss đang vui? Mary thấy ông ta cầm ly vẫy nàng, giọng ồn ào:
- Ủa? Thấy tôi mà cô không chạy trốn ư? Cô có nhớ chú Joss không?
Mary cố mỉm cười chào ông ta và hỏi cuộc du hành của ông có tốt đẹp chăng.
- Tốt đẹp khỉ khô! Tôi chỉ cần kiếm tiền thôi. Nếu cô muốn biết, tôi trả lời đây. Tôi có vào cung điện thăm Đức Vua!
Đắc ý về câu pha trò của mình, ông ta cười khanh khách.
Patience hiện ra phía sau ông. Bà cũng mỉm cười, song nụ cười của bà tắt tức thì khi chồng bà ngừng lại. Mary nhận thấy dì mình đã trở về với nỗi lo sợ thường xuyên. Nàng lặng lẽ toan rút lui thì Joss gọi giật nàng lại:
- Nghe đây! Chiều nay đừng có trốn trên đó. Có việc làm ở quầy rượu, nghe chưa? Cô biết hôm nay thứ mấy không?
Mary chưa mất ý thức về thời gian. Nàng đến đây hôm thứ hai, vậy hôm nay là thứ bảy. Nàng hiểu chú Joss muốn bảo gì. Sẽ có khách đến Lữ quán Giao Mai.
Họ đến từng người một. Họ băng qua sân, yên lặng và rất nhanh như không muốn ai trông thấy, tuy họ đi trong bóng tối. Họ đi dọc bờ thành đến bên cổng gỗ, gõ cửa và được đưa vào quầy rượu.
Có người mang theo đèn lồng nhưng ánh sáng như làm phiền họ nên họ lấy áo khoác che lại. Vài người đi ngựa, vó ngựa khua đều trong đêm phá tan bầu không khí yên tĩnh của Lữ quán Giao Mai. Kế đó, có tiếng mở cửa chuồng ngựa và tiếng trò truyện thì thào. Có người mũ che khuất mặt, áo choàng cao kín cằm. Họ có vẻ mờ ám, bí mật.
Trong Lữ quán đèn sáng rực rọi qua cái cửa sổ mở rộng. Thường, cửa sổ đóng kín mịt.
Càng về khuya, sự huyên náo càng tăng. Có tiếng cười, tiếng hát, tiếng hò hét. Điều đó chứng tỏ rằng họ đã qua sự dè dặt lúc chưa đặt chân vào bên trong. Vào đến quầy rượu, ngồi giữa bạn bè, miệng phì phào thuốc lá, tay bưng cốc rượu tràn sóng sánh, họ thôi thận trọng.
Đám người tụ họp quanh Joss thật sự kỳ lạ.
Mary đứng trong quầy, khuất sau hàng chai và ly nên nàng dễ quan sát họ mà họ không ngờ. Họ ngồi dạng chân trên ghế hay vắt vẻo trên băng; người dựa vào tường, người thì bách bộ loanh quanh, vài người lại nằm xoài ra đất. Hầu hết họ đều bẩn thỉu, quần áo rách nát, tóc rối bù, móng tay cáu ghét. Đúng là bọn tha phương cầu thực, đầu trộm đuôi cướp.
Trong số chúng, có một lão trại chủ phải bán nông trại không phải vì không khai thác nổi mà vì nổi tiếng lưu manh, một gã chăn cừu đã nổi lửa đốt máy xay của chủ, một tên buôn ngựa bị đuổi khỏi vùng Devon. Một tên khác làm thợ giầy ở Launceston, nhưng thực sự, chuyên tiêu thụ đồ ăn trộm. Lại còn có gã, trước đây vốn là phó thuyền trưởng nhưng lại đánh đắm tàu. Tên nhỏ thó đang gặm móng tay, làm nghề đánh cá, nghe đâu có cả một chiếc vớ đầy vàng cất kỹ trong ống khói, không biết do đâu. Vài tên ở các vùng lân cận, kẻ từ xa. Một gã nom đần độn, và gã nữa có một vệt đỏ bầm trên mặt, suốt từ khi vào nhà, gã không ngừng nắm vệt đó giật giật liên hồi làm Mary phát nôn, muốn ngất đi.
Cảm giác nầy, cộng chung với khói thuốc, mùi rượu, hơi người bẩn nằm ngồi la liệt làm cô càng khó thở. Được cái, nàng không phải đến cạnh họ, nàng chỉ rửa ly và rót đầy rượu, nàmg đứng khuất sau quầy, cố thu mình càng kín càng hay.
Joss đích thân bưng rượu mời khách hàng, lão đi khắp phòng, cười với tên nầy, pha trò với gã nọ, vỗ vai hay ra dấu với kẻ kia. Thoạt thấy Mary, có tên cười ngất, tên thì nhìn cô bằng ánh mắt xoi mói, tên thì rùn vai, nhếch mép, và trong thoáng chốc chúng quên mất cô gái, coi nàng là một cô cháu vợ của Joss, đến giúp việc như đã được nghe giới thiệu. Bọn trai tráng có vẻ muốn trò chuyện với cô song lại sợ tia mắt của Joss, sợ lão nổi giận bất ngờ chăng.
Mary thấy nhẹ nhõm vì được yên thân. Nàng sẽ xấu hổ, nhục nhã nếu biết được ý nghĩ bọn nầy. Dì nàng không ra mặt, song Mary thấy bóng dì sau cửa, một lần nàng bắt gặp tia nhìn sợ sệt của dì.
Đêm như vô tận, bóng người trước mặt Mary lờ mờ, có một lúc bọn họ như nhăn nhó, miệng rộng, tóc bù xù, răng trắng nhởn làm nàng khiếp đảm. Họ uống đến nỗi nằm lăn xuống đất, sùi bọt mép. Bọn còn lại tụ tập quanh một gã nhỏ thó, bẩn thỉu đến từ Redruth. Lão hát nhiều bài hát tục tĩu để làm vui cả bọn. Tiếng cười như muốn rung cả mái nhà song được hãm lại trước vẻ hầm hầm của Joss.
Mary thấy có sự bất thường, man rợ trong những tiếng cười đó, nó từa tựa như tiếng con vật lạ rống lên giữa vách đá tối om.
Tên bán hàng rong đem gã đần ở Dozmary ra làm hề. Gã này say khướt. Chúng đặt gã lên bàn, bắt gã lặp lại bài hát giữa trận cười quái ác. Gã đàn ông được tán thưởng, giật giật vết bầm trên mặt kêu lên ăng ẳng, dễ sợ.
Mary nói với chú Joss:
- Tôi chịu hết nổi, chú cho tôi ra khỏi đây. Chú lo cho họ được rồi.
Joss lấy tay gạt mồ hôi trán, trừng mắt. Lão vẫn tỉnh táo, dù uống liên miên:
- Chịu không nổi hả? Cô là thứ gì chớ? Công chúa hả? Nghe đây. Mầy được yên ổn sau quầy như thế này thì đáng lẽ ra mầy nên quì lạy tao mới phải. Nếu mầy không là cháu vợ tao thì... hà hà... giờ nầy mầy rách như miếng giẻ rồi, con ngốc ạ!
Rồi lão cười hô hố, lấy tay bẹo má cô gái:
- Nhưng thôi được, cho mày de. Cũng gần nửa đêm rồi, ta không cần mầy nữa. Nhớ khóa cửa kỹ, dì cô còn trùm kín đầu nữa kia.
Lão hạ giọng xuống, cúi gần tai Mary, rồi thình lình nắm tay cô bẻ quặt ra sau làm cô gái đau nhói, kêu lên một tiếng.
- Tốt! Đó là cách cảnh cáo để mầy nhớ giữ mình. Câm miệng thì sẽ yên thân.
Lão thôi cười, nhíu mày quan sát cô như đọc được tất cả ý nghĩ cô:
- Cô không trì độn như dì cô, đây là một điều tai hại. Cô có vẻ thông minh và tò mò, khó làm cho cô sợ. Nhưng mà...óc tò mò của cô có thể bóp bẹp như bánh đa. Thôi! Đi đi kẻo ta ngứa mắt.
Lão quay lưng lại, vì sự khinh bỉ của Mary lộ rõ trong mắt cô làm lão điên tiết lên. Lão vứt cái ly trong tay xuống đất, thét to:
- Lột quần áo thằng ngốc ra, cho nó về với mẹ nó! Trời tháng 11 sẽ làm nó mát mẻ. Ta hết muốn thấy trò nhạt nhẽo của nó rồi!
Tên hàng rong và cả bọn làm theo lời Joss, đồng loạt quay sang đè nghiến tên ngốc vùng Dozmary xuống, khiến tên nầy hoảng sợ kêu rống lên.
Mary chạy bay ra khỏi đó, lên phòng, hai tay bịt tai lại mà tiếng cười man rợ, khả ố vẫn dội vang trong hành lang lạnh lẽo vọng đến tai nàng. Mary buồn nôn dữ dội, nằm xoải xuống giường.
Có tiếng cười ồn ào dưới sân rồi một tia sáng từ cái đèn lồng rọi ngay cửa sổ. Mary đến kéo cửa sổ lại. Nàng chợt thấy một bóng đen loã lồ, run rẩy đang rên rỉ. Sau lưng, một đám người do Joss dẫn đầu đang hò hét, tay cầm roi vụt vun vút đuổi theo. Mary thay áo vội vàng và chui vào giường, trùm chăn kín bưng. Dù nhắm mắt, bưng tai, Mary vẫn thấy khuôn mặt bầm tím của tên ngốc đáng thương, vẫn nghe tiếng gào thét yếu ớt của gã khi trợt chân rơi xuống hố.
Cô gái bàng hoàng, nửa thức, nửa ngủ. Nhiều hình ảnh loạn xạ nhảy múa trong đầu nàng. Có lúc cô như lạc giữa đồng hoang, song lại vẫn tỉnh táo mà thấy ánh trăng xuyên qua cửa sổ. Tiếng cười, nói xa dần và tắt hẳn cùng với tiếng vó ngựa, tiếng bánh xe. Nàng thiếp ngủ.
Đột nhiên, Mary choàng tỉnh. Có tiếng động, càng lúc càng rõ hơn, song khi nàng vùng dậy thì chỉ nghe tiếng tim mình đập rộn trong lồng ngực. Rồi có tiếng vật gì đang bị kéo lê sềnh sệch dưới sàn nhà. Nàng khẽ kéo cửa sổ nhìn xuống sân, năm cái xe ngựa cả thẩy, ba có cái mui che kín, hai cái để trần, ngay trước cổng. Ngựa thở phì phò ra khói.
Bọn đàn ông tụ tập quanh xe. Lão thợ giầy đứng ngay cửa sổ nàng nói chuyện với tên lái ngựa. Một tên vuốt ve bờm ngựa. Một gã khác nhảy lên xe, cố sức đỡ một vật nặng. Tuy chưa quen biết, nhờ ánh trăng nàng nhận rõ mặt từng tên. Họ có vẻ nôn nả vì trăng sáng quá. Những vật nặng được kéo lê một cách hối hả, dọc theo hành lang đến cái phòng các cửa đều đóng kín bí mật. Mary chợt hiểu: những kiện hàng xe chở đến được khuân vào đó. Căn cứ vào sự nhọc mệt của ngựa, Mary biết chúng đã tải đồ từ xa đến. Còn một xe có mui không đưa hàng vào quán mà lại chuyển sang xe khác, hàng đủ cỡ: kiện to, kiện nhỏ, kiện tròn, kiện dài được bọc kín trong rơm hay giấy. Gã phu xe nhảy phóc lên ngựa, ra roi chạy liền khi chất đầy hàng. Mary ngạc nhiên thấy lúc nãy thì họ ầm ĩ, náo loạn mà giờ thì chăm chỉ yên lặng. Ngay cả ngựa cũng thế.
Joss Merlyn đi cạnh tên bán hàng rong, không mũ, không áo choàng dù trời lạnh buốt, tay áo xắn cao. Joss cất tiếng trầm trầm:
- Mọi việc êm xuôi chứ?
Tên phu xe gật đầu, giơ tay vẫy. Cả bọn lục tục rời Lữ quán, sau khi chia tay nhau những gói hàng đủ loại. Một tên chất lên ngựa cả khối hàng hóa mà còn mang kè kè một bọc lớn bên mình. Xe và ngựa rẽ theo nhiều hướng, mất dạng trong giây lát.
Lúc này trong sân chỉ còn lại ba người: Joss, một tên lạ mặt và gã hàng rong. Họ cùng vào quầy rượu và đóng sập cửa lại. Mary chỉ còn nghe tiếng đồng hồ tích tắc từ hành lang. Ba tiếng bong bong buông rời rạc.
Mary nghe ớn lạnh cả người. Nàng quàng khăn lên vai cho ấm nhưng vẫn không tài nào ngủ được. Nàng thoáng hiểu là Joss ở trong một tổ chức buôn lậu lớn. Lữ quán Giao Mai quả ở vào một vị trí thuận tiện, Joss mua nó chắc vì lý do nầy. Lữ quán sừng sững, cô độc trên quốc lộ từ Bắc vào Nam. Thật dễ dàng cho một tên gan dạ có óc tổ chức, điều khiển những chuyến hàng từ bờ bể đến phụ lưu sông Tamar. Lữ quán vừa là chỗ nghỉ chân đồng thời cũng là nơi chất chứa hàng lậu. Joss đã dùng đủ mọi hạng người: bọn du mục, bọn hàng rong, thủy thủ...
Có bản lĩnh, đủ hung bạo làm cho bọn thủ hạ tuân theo răm rắp, Joss lại vừa có đủ thông minh để che mắt chính quyền chăng? Joss là thủ lãnh chăng? Chắc chắn thế. Mary thầm nghĩ, nếu không, bọn thô lỗ kia làm thế nào qua mặt được pháp luật? Nếu một quan tòa quan tâm đến bọn buôn lậu, chắc ông ta không thể quên Lữ quán Giao Mai.
Mary cau mày, cắn môi suy tính. Nếu không vì dì, nàng đã tức khắc rời Lữ quán để đi tố cáo Joss ngay. Song dì nàng trung thành với chồng quá đỗi làm cho cô gái thấy khó xử thêm. Nàng nhớ giọng nói sợ sệt, ánh mắt kinh hoàng của dì.
Buôn lậu là một điều phi pháp nhưng có đến nỗi làm dì sợ đến mức đó chăng? Hay còn gì mờ ám hơn?
Mary thấy cần có sự khuyên bảo, nhưng biết nhờ ai?
Nàng chỉ là một cô gái. Giá là trai, sẽ dễ dàng biết bao. Nàng sẽ cướp một con ngựa chở dì trên yên phi nước đại trở về Helford, quên mọi sự. Hoặc nàng sẽ đánh nhau với chúng một trận và... sẽ thắng. Hoặc nàng sẽ đi tố cáo ở một nơi gần nhất...
Cô gái 21 tuổi ngồi thừ, không có khí giới nào khác hơn là bộ óc. Cô biết nếu lão mà hay những ý định trong đầu cô, lão sẽ bóp nát cô ngay, không do dự. Mary đã thề rằng nàng không bao giờ sợ hãi hay là tỏ ra sợ hãi trước Joss hay bất cứ ai. Nàng chỉ sợ một lần trong đời: khi con bò điên đuổi nàng ở Manaccan thôi.
Ý nghĩ đó làm Mary bình tĩnh. Nàng sẽ sàng thay quần áo, mang vớ nhưng không mang giầy. Nàng lướt ra hành lang, nắm tay vịn cần thang, bước xuống. Tiếng đồng hồ giúp nàng can đảm lên.
Cửa quầy rượu được mở và có tiếng người trong bếp, tiếng nói thì thào, ánh sáng xuyên qua hành lang sâu hun hút. Nàng toan quay lên, nhưng sự tò mò thắng ý định ấy. Nàng đi dọc theo hành lang, nép sát vách. Nàng đã thấy rõ sự bừa bãi bên trong quầy rượu: ly cốc ngổn ngang, cả mảnh vỡ do Joss đập ly ban nãy. Mary không thấy họ ngồi đâu. Im lặng rất lâu.
Thốt nhiên có giọng cất lên, át tiếng tim nàng đang dồn dập:
- Không! Merlyn! Anh đừng hòng biến tôi thành quỷ dữ. Tôi thề chấm dứt liên lạc với anh từ hôm nay. Anh bảo tôi nhúng tay vào tội ác tày trời. Đừng hòng!
Giọng gã đàn ông cao lên run rẩy, hình như gã mất hết tự chủ rồi.
Joss Merlyn nói nhỏ hơn, nàng không nghe gì nhưng tiếng cười khả ố của tên bán hàng rong thì không sao quên được.
Người đàn ông đợi tiếng cười thô bỉ kia dứt rồi cất tiếng:
- Treo cổ? Tôi sợ gì cái đó? Đời tôi chả còn nghĩa lý gì. Nhưng lương tâm tôi còn và tôi sợ Thượng Đế toàn năng. Tôi có thể giết địch thủ trong một cuộc chiến đấu rồi nhận hình phạt. Nhưng giết người vô tội, nhất là giết đàn bà, con trẻ thì khác nào đi thẳng địa ngục?
Có tiếng xô ghế, tiếng đập thình xuống bàn, tiếng chửi thề. Lần nầy, Joss la lên:
- Đâu dễ vậy! Đừng giỡn mặt với tao chớ! Mày đã dính chặt vào vụ nầy rồi. Vứt mẹ cái lương tâm của mày đi. Không còn lùi được đâu, trễ quá rồi. Thật tao đoán không sai. Từ đầu, tao đã ngờ cái bộ vó trưởng giả, lương thiện của mày. Mà thôi...
Joss đổi giọng, ra lệnh cho tên hàng rong:
- Harry! Đóng cửa, gài then cẩn thận đi nào!
Có tiếng đấm đá, tiếng bàn ghế gãy đổ. Cửa đóng sầm một tiếng và giọng cười khả ố của Harry làm Mary dựng tóc gáy:
- Bây giờ ta cù hắn như tên Sam lúc nãy nghe? Cũng tội nghiệp nếu ta lột áo quần hắn, nhưng biết làm sao? Hắn tự chuốc vạ vào thân mà! Tôi được lãnh cái đồng hồ tay hắn chứ, anh Joss?
- Câm mồm lại. Hãy làm những gì ta bảo: đứng yên chỗ cửa kính kia và đâm thẳng vào tim nó nếu nó tính trốn.
Quay sang người đàn ông lúc nãy, Joss cất giọng giễu cợt:
- Thưa ông thư ký hành chánh, sao ông điên bất ngờ thế, hở? Ông tưởng đây là thành phố Truno ư? Ông muốn gì? Muốn quất ngựa đi thẳng về Bodmin rồi sáng mai dẫn quan tòa và nửa tiểu đội lính bao vây lữ quán Giao Mai, hử?
Người đàn ông thở hổn hển. Ông ta bị thương chăng? Tiếng ông ta đứt quãng:
- Hãy hoàn thành tội ác của các anh ngay đi nếu các anh muốn thế. Phần tôi, tôi thề không tố cáo các anh và cũng không ngăn cản, nhưng tôi không hợp tác với các anh được nữa.
Im lặng một lúc, nàng nghe thấy Merlyn cười khẩy:
- Coi chừng! Đã có kẻ nói hệt giọng anh và chỉ 5 phút sau hắn được treo cách mặt đất cỡ hơn tấc rưỡi. Tôi có hỏi hắn gần mặt đất như thế hắn vừa lòng chưa, vì hắn là nông dân không ưa xa rời đất. Tiếc thay, hắn hết trả lời được, tuy rằng phải mất đến 7 phút và phần tư giây hắn mới ngưng thở.
Mary nghẹn thở, tay chân như đeo chì, nàng sợ mình sẽ ngất đi, vội vàng lần bước dọc theo hành lang. Không, nàng không thể ngất nơi nầy, lộ mất.
Hai gối run rẩy như chực khuỵu xuống. Đâu nàng choáng váng, nhưng tai vẫn nghe giọng Joss:
- Harry, về đi! Để mình tao xử tội gã nầy. Mầy hết việc rồi. Lấy ngựa của nó mà chuồn ngay, rồi thả ngựa bên vùng Camelford. Tao trị tội nó được!
Lần đến phòng khách, Mary quỵ xuống ngất đi, nhưng rồi nàng tỉnh lại rất mau. Nàng chống tay ngồi lên, lắng nghe tiếng ngựa, tiếng chửi thề và cả hai thứ tiếng xa dần trong bóng tối. Nàng không biết làm cách gì cứu nạn nhân.
Đến Dozmary kêu cứu chăng? Khi nàng trở về, ông ta đã tắt thở rồi. Mà chắc gì nàng cầu cứu được? Có thể dân vùng lân cận đây đều là thuộc hạ của Merlyn. Dì Patience ư? Vô ích. Cầu trời cho người lạ, chỉ còn tự cứu bằng cách nhận lời hợp tác với quân gian bằng không, phải đánh nhau với chủ quán dù ông ta chắc cầm cái bại trong tay. Mary không có khẩu súng hay con dao, nếu làm cho Joss bị thương để cứu được người lạ, nàng không do dự...nhưng...
Bỗng nàng nghe có tiếng động khẽ, rồi sàn lầu kêu răng rắc. Bước chân sẽ sàng tiếp tục.
Ai?
Dì nàng thì nhất định là chết khiếp trong phòng, tên Harry đã đi xa. Joss đang thi hành tội ác trong kia.
Thế thì ai đang lên lầu? Hắn ta đột nhập vào đây từ bao giờ? Kẻ thù hay bạn của Joss? Kẻ lạ mặt chắc không muốn chạm trán cùng bọn buôn lậu? Có thể, ông ta sẽ giúp nạn nhân?
Tia hy vọng lóe sáng trong tim cô gái.
Thình lình cửa quầy rượu bật mở làm Mary hốt hoảng lùi vào nấp sau cửa. Sàn nhà kêu lên răng rắc. Chao ơi! Tim Mary nhói lên. Qua khe cửa, nàng thấy hai bóng người tiến lại nhau: Joss và một kẻ lạ mặt.
Gã đó đặt tay lên vai Joss, hỏi:
- Thế nào?
- Tùy anh quyết định chứ không phải tôi. Anh chỉ việc bảo tôi.
Ngay sau đó, Mary không thể nhìn thấy mà cũng không nghe gì thêm vì kẻ lạ mặt đã kéo tuột Joss vào quầy rượu. Có tiếng của đóng rồi lặng lẽ trở lại.
Hình như có một lúc nàng nghe tiếng kêu yếu ớt thoảng vào tai.
Tiếng kêu cứu của nạn nhân chăng?
Rồi như có tiếng chân ra cổng chính.
Đánh bạo, cô gái lại sát cửa quầy rượu áp tai nghe ngóng: bóng tối và sự im lặng phủ tràn.
Không, chả còn ai bên trong cả.
Nàng đẩy cửa bước vào. Không khí lành lạnh khiến nàng rợn cả người.
Căn phòng trống trơn.
Nhưng hình như không phải vậy. Dưới ánh trăng mờ mờ, nàng thấy rõ có một vật lay động dài ngoằng đong đưa từ trần nhà. Thoạt đầu, Mary nghĩ đến một con rắn buông mình xuống, nhưng khi định thần nhìn kỹ, cô gái chợt rợn người vì khiếp đảm.
Một sợi dây thòng lọng.
Nhìn xuống sân, Mary thấy cửa chuồng ngựa mở rộng và có dấu giầy mới in lên bùn. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm khi biết chú Joss đã ra ngoài. Mary vội vàng mở rương lấy cái váy dày, cái tạp dề màu và đôi giầy gỗ thô mà nàng vẫn thường dùng ở trại.
Mười phút sau, nàng xuống bếp, rửa mặt.
Dì Patience bước ra khỏi vòng rào dành nuôi gà, túm trong tạp dề mấy quả trứng. Dì đưa ra cho Mary thấy:
- Dì tin là cháu sẽ thích khi có trứng để ăn sáng nay. Chiều qua, dì thấy cháu mệt quá không ăn được gì cả. Dì để dành cho cháu lọ mứt.
Nom dì tươi tỉnh, mặc dù đôi mắt thâm quầng chứng tỏ đêm qua thao thức, lo âu. Mary nghĩ rằng chỉ khi nào có mặt chú Joss dì mình mới sợ sệt như đứa trẻ phạm lỗi. Khi ông ta đi vắng, dì dễ vui vì một điều nhỏ nhặt như luộc cho cháu cái trứng gà.
Hai người cùng tránh nhắc lại việc đêm qua. Không nhắc đến cả tên Joss nữa, lão đi đâu, làm gì nàng không cần biết, chỉ thấy vui là đủ.
Mary biết dì không muốn bàn đến việc hiện tại. Bà có vẻ... sợ cháu hỏi. Mary chỉ kể những khó khăn mấy năm sau cùng ở Helford, về cái chết của mẹ. Mary thấy dì có vẻ cố sức mà không thể chú ý đến lời nàng. Những năm dài lo sợ bên cạnh chồng làm bà mất nhiều khả năng cần thiết. Dường như đã có một điều gì đó khủng khiếp xảy đến với dì khiến bà trở nên ngớ ngẫn, gần như trì độn?
Suốt sáng đó, Mary phụ dì trong công việc hằng ngày và dạo xem gần hết Lữ quán.
Ngôi nhà đầy bóng tối với những hành lang dài và những căn phòng kỳ lạ. Có một lối riêng biệt vào quầy rượu ở một bên nhà. Căn phòng tuy trống rỗng nhưng không khí bên trong nặng nề, chứng tỏ có một sự nhộn nhịp vừa diễn ra ở đây: mùi rượu nồng hăng, hơi người ấm, những vết bẩn còn mới trên những dãy ghế đen đủi.
Trong toàn lữ quán, có lẽ chỉ phòng nầy là sống động nhất.
Các phòng khác hình như bị bỏ quên, không ai lui tới. Phòng khách ở cạnh cổng vào cũng trống vắng như đã nhiều tháng không ai đặt chân vào và sưởi ấm ở lò. Những phòng trên lầu càng tệ hơn, một phòng dùng làm kho. Nhiều thùng chất sát vách, trên phủ mấy tấm da ngựa rách nát vì chuột gặm. Phòng đối diện, khoai tây và củ cải chất đống trên cái giường hư nát.
Mary đoán rằng phòng nàng trước kia cũng như các phòng nầy. Giường tủ và bàn chải tóc chắc do dì nàng mới trang hoàng cho cháu.
Mary tránh đến gần phòng dì và Joss ở hành lang bên kia.
Phía dưới giàn phòng nầy, có một hành lang song song với hành lang trên và ở đầu đối diện với gian bếp có một phòng khóa kín. Mary vòng ra sân, nhìn vào cửa sổ nhưng cửa sổ được che kín bằng một tấm ván đóng chặt vào đó nên nàng không thấy được gì.
Ngôi nhà và các dãy phụ chiếm bốn cạnh sân. Giữa là một bồn cỏ và hồ nước.
Trước mặt lữ quán là con đường trải dài vô tận, băng qua những cánh đồng hoang ướt át vì mưa. Quanh tầm mắt nàng chỉ có những ngọn đồi đen đủi và ao tù. Lữ quán là ngôi nhà duy nhất trong vùng, dù là một ngôi nhà xám chứa đầy bí ẩn và không có gì tỏ ra hiếu khách.
Phía tây là những ngọn núi đá sừng sựng, vài ngọn có cỏ mọc lưa thưa dưới ánh nắng yếu ớt của mùa đông cỏ vẫn úa vàng. Nhiều ngọn núi khác chỉ thấy lởm chởm đá.
Chốc chốc, ánh nắng bị một đám mây che khuất, tạo thành một bóng đen dài trên đồng hoang. Màu sắc cũng thay đổi: khi thì đồi núi tím thẫm như dấy mực, khi thì tia nắng xuyên qua mây làm ngọn đồi trở thành vàng, nâu. Nhiều ngọn khác chìm trong bóng tối.
Khung cảnh thay đổi liền liền. Phía đông ánh nắng ban trưa rực rỡ và đồng hoang xem yên tĩnh như một sa mạc cát, trong khi phía tây những ngọn đồi bị chế ngự bởi mùa đông buốt, thỉnh thoảng tối sầm do một đám mây. Không khí lạnh và thoang thoảng hương thơm tinh khiết của miền núi. Thật là một sự mới lạ với Mary, vì nàng chỉ quen với khung cảnh êm ả của Helford, với những rào dậu và những cây to che chở cho nên dù vào đông gió cũng không dữ dội. Mũi đất cao che chở cho những người sống dưới bóng nó, chỉ mình dòng sông xanh biếc cuồn cuộn, bọt tung trắng xóa, nom có khi hơi dữ tợn mà thôi.
Tuy nhiên, giữa hoang vu, man dã, đáng ghét, Mary cảm thấy trong không khí có sự kiêu hùng kỳ lạ, cuốn hút lấy nàng làm nàng như bị thách đố và không muốn lùi bước. Thốt nhiên, nàng cảm thấy thích thú, ưa mạo hiểm, thấy hăng hái trong lòng. Má nóng bừng, mắt ngời sáng, tóc tung bay trong gió lộng, Mary thu hồi được nghị lực, niềm tin một cách bất ngờ.
Mary thở mạnh, hít không khí ngọt ngào mát mẻ tinh khiết vào hai buồng phổi.
Nàng đến bên hồ, mở vòi và ngâm hai tay xuống nước. Nước lạnh rợi, trong veo. Nàng vốc một ngụm đưa lên uống. Tuy nước ở đây khác xa nước nàng đã uống trong bếp, một vị chan chát quyện trong lưỡi, nàng thấy thích thú và đã khát ngay.
Mary như được bồi bổ cả thể xác lẫn tinh thần.
Nàng cảm thấy đói và nghĩ đến dì.
Mary ăn món thịt trừu hầm củ cải một cách ngon lành. Lần thứ nhất, sau 24 giờ chịu đựng Mary cảm thấy phấn khởi, bình tĩnh, can đảm. Mary gợi chuyện:
- Dì ơi, tại sao chú Joss lại làm Lữ quán Giao Mai ở một nơi hoang vắng như thế này?
Sự tấn công bất ngờ và thẳng thắn của cô cháu làm dì lúng túng. Bà cắn môi, đỏ mặt giây lâu mới trả lời, ấp úng:
- Thì... thì con thấy đó. Nơi nầy thuận tiện quá, quốc lộ chính từ Bắc đến Nam. Xe qua lại hai bận trong tuần. Họ đi từ Bodmin, Truno đến Launceston. Cũng như con đi hôm qua vậy mà. Họ du lịch, làm ăn, buôn bán...
- Đúng thế, nhưng tại sao họ không ghé Lữ quán Giao Mai?
- Họ dừng lại chớ! Họ đến quầy rượu để giải khát. Chúng ta có đông khách hàng.
- Sao dì có thể nói thế được? Phòng khách bỏ trống, phòng ngủ dùng làm kho, chứa đầy chuột kia mà! Cháu thấy tận mắt, cháu đã nghỉ ở lữ quán nhỏ hơn đây. Trong làng cháu cũng có một cái. Mẹ cháu bạn với bà chủ nên cháu có đến dó một lần. Trên lầu có hai phòng nhưng được trang hoàng tử tế cho khách.
Dì Patience im lặng giây lâu, lại cắn môi:
- Chú Joss không thích ai ở lại. Chú ghét ồn ào. Vả lại ở một nơi vắng vẻ như chỗ nầy có thể nguy hiểm cho mình...
- Cháu không tin. Ghét ồn ào mà lại mở Lữ quán? Sợ nguy hiểm mà lại chọn một nơi vắng vẻ để làm ăn? Mà mở lữ quán để làm gì nếu không cho khách lương thiện ghé qua đêm? Dì nên thành thật với cháu. Lữ quán nầy được mở với mục đích gì? Và làm sao dì chú sống được nếu không tiếp khách?
- Dì đã nói rồi, chúng ta có khách hàng mà! (Giọng dì trở nên nóng nảy). Nhiều bữa, quầy rượu chật khách.
- Hôm qua, bác phu xe nói với cháu là những người tự trọng không hề ghé lại đây. Họ sợ!
Mary gằn từng tiếng.
Dì Patience tái mặt, mắt dì lộ vẻ hốt hoảng. Dì nuốt nước bọt, thì thào:
- Chú Joss nóng như lửa, cháu thấy đó, chú không muốn ai xen vô chuyện riêng.
- Nhưng thưa dì, ai dòm ngó chi công việc của một ông chủ quán lương thiện? Dù cho chú nóng tính, đâu đến nỗi người ta phải chạy trốn? Đây không phải là lý do chính đáng.
Dì không cãi được. Mary tìm cách khác khơi chuyện:
- Tại sao dì đến đây? Mẹ con vẫn ngỡ là dì ở Bodmin.
- Dì gặp chú ở Bodmin nhưng không ở đó. Chú mua Lữ quán nầy của ông Bassat. Quán bỏ trống nhiều năm về trước, chú con muốn ở đây cho tới già, tới chết. Hồi xưa, ổng đi đây đó dữ lắm. Qua tận Mỹ Châu cơ.
- Chú chọn nơi hoang vu nầy để dưỡng già, kể cũng lạ.
- Đây là nơi sinh trưởng của chú đấy chớ, cách đây vài dặm thôi. Em trai chú, thằng Jean vẫn ở trong căn nhà tổ phụ. Lâu lâu, nó có đến đây, nhưng chú Joss không ưa em Jean của chú.
- Ông Bassat có đến đây không, thưa dì?
- Không.
- Sao vậy dì?
- Có sự hiểu lầm. Chú mua ngôi nhà nầy qua sự trung gian của người bạn. Ông Bassat chỉ biết chủ mới là chú khi chú dọn về đây. Ông ấy không bằng lòng.
- Can gì đến ông ấy? Bán thì người ta mua chứ?
- Xưa kia lúc còn ở Trewartha, nghĩa là lúc trẻ, chú con nổi tiếng hung tợn. Không phải lỗi ông, dòng họ Merlyn toàn man rợ thế cả. Thằng Jean còn tệ hơn chú nhiều. Nhưng ông Bassat nghe lời thiên hạ thêm thắt nên ghét chú con. Ông tức giận khi biết chú con mua Lữ quán của ông. Chỉ có thế thôi, con ạ!
Dì tựa lưng vào ghế, có vẻ mệt nhọc vì bị chất vấn. Mắt bà như van lơn cháu đừng cật vấn chi thêm. Nhưng Mary lạnh lùng tìm hiểu:
- Dì ơi! Dì hãy nói thật cho cháu biết, hãy nhìn cháu đây. Căn phòng bí mật ở đầu hành lang có liên lạc gì với những xe cộ dừng lại ban đêm không?
Trễ quá rồi: Mary chợt hối nhưng đã muộn. Dì nàng xanh ngắt, môi run rẩy, mắt lạc thần, bà đưa hai tay che cổ, sợ hãi tột cùng. Mary quì xuống cạnh dì, tay quàng lấy cổ dì, ôm chặt bà và hôn lên tóc bà. Nàng run rẩy:
- Dì tha lỗi cho con? Con vụng về và quá tò mò. Con xấu hổ lắm, xin dì quên những gì con vừa hỏi.
Dì Patience im lặng, tay ôm lấy mặt. Mary vuốt ve và hôn tay dì. Rồi bà bỏ tay che mặt ra, mắt bớt vẻ kinh hoàng, bà nắm tay cháu, thều thào:
- Mary! Dì không che dấu cháu, nhưng sự thật có nhiều điều dì cũng không biết hết. Nhưng vì cháu là cháu dì, con của người chị yêu quí, dì phải báo trước cho cháu biết...
Bà nhìn nhớn nhác như sợ Joss hiện ra bất ngờ siết cổ mình:
- Có những điều xảy ra tại đây mà dì không bao giờ dám nghĩ đến hay nói đến. Những chuyện đáng sợ... Chú Joss liên lạc với nhiều người kỳ lạ và lối mua bán cũng rất lạ. Có đêm, họ đến đây. Từ cửa sổ phòng con trên cổng chính, con có thể nghe họ gõ cửa. Chú con sẽ mở cửa và đưa họ đi dọc theo hành lang đến căn phòng bí mật. Họ trò chuyện rất lâu và rút lui trước khi trời sáng. Mary! Khi họ đến, con nhớ cứ nằm yên, lấy gối bịt tai lại. Nếu con hỏi đến chuyện họ, con biết được một nửa câu chuyện của họ, tóc con sẽ bạc như dì đây. Con sẽ phải nhỏ lệ mỗi đêm và run giọng khi cất tiếng. Tuổi trẻ và sự vô tư của con sẽ biến mất như dì vậy. Đừng quên lời dì...
Dì đứng lên xô ghế ra. Mary nghe tiếng chân dì lên thang một cách uể oải, mệt nhọc và dì nằm lì suốt buổi trong phòng.
Mary ngồi bên cạnh chiếc ghế không. Xuyên qua khung cửa kính, ánh mặt trời tắt sau ngọn đồi xa nhất và mầu xám của trời đông lại bao phủ khắp Lữ quán Giao Mai.
Joss vắng mặt cả tuần, Mary có dịp dạo khắp vùng. Nàng chả bận rộn gì nhiều ngoài việc giúp dì làm bếp và lau dọn trong nhà. Nàng rong chơi tự do, sau bữa ăn trưa. Dì nàng thì không rời khỏi khuôn viên nhà bếp và chuồng gà. Bà không ưa đi dạo.
Mary được mặt trời hướng dẫn và nhờ sự hiểu biết thông thường của một nông dân, nên rất vững lòng. Đồng hoang còn man rợ hơn Mary tưởng. Rộng như sa mạc, nó chạy dài từ đông sang tây. Vài ngọn đồi cao hiện ra ở chân trời. Nàng không biết giới hạn của nó ra sao, cho đến một ngày nọ nàng đi về hướng tây, leo qua núi đá cao nhất sau lữ quán nàng chợt thấy biển cả lấp lánh dưới nắng. Nhưng đây là vùng yên lặng, vắng vẻ đến rợn người. Trên núi, những khối đá tựa vào nhau tạo nên những hình thù quái dị, nom như những tên lính do Thượng Đế cắt đặt đứng canh tại đó. Vài khối đá khác trông như một bộ bàn ghế, cũng có những khối khác nhỏ hơn, nom hiền lành như một gã khổng lồ nằm che hết các bụi gai. Có phiến phẳng, có phiến dài, có phiến nhẵn như mặt bàn thờ, ngửa mặt chờ cuộc tế. Những đàn trừu hoang sống tại núi đá và quạ, và diều hâu. Đồi là tổ ấm của những sinh vật cô đơn. Đàn bò ăn cỏ trên đồng hoang, tìm đất cứng mà đến, chúng tránh những đám cỏ ngon lành nhưng thật ra không phải là một bãi cỏ mà là một vũng lầy đáng sợ.
Khi gió nổi lên, có tiếng ngân vang như tiếng hú trong các hốc đá, khi lại rên rỉ bi ai. Mary không biết gió từ hướng nào ào đến, nó trườn đi như một con vật vô hình trên mặt cỏ và cỏ rung động. Nó lướt trên những vũng nước mưa động trong hốc đá, nước gợn sóng lên. Trên những phiến đá, sự im lặng ngự trị, im lặng kỳ bí mênh mông. Như là sự im lặng của một kỷ nguyên khác, thời chưa có vết chân người trên quả đất. Sự yên tĩnh lạ lùng, đe dọa, không phải là sự yêu tĩnh được vây bọc trong tình thương và sự chở che của Chúa.
Mary băng qua đồng, leo lên núi đá, ngồi nghỉ trong một hốc đá, cạnh nguồn nước. Lòng hồi hộp, nàng nghĩ đến thời thơ ấu của Joss Merlyn, đến đóa hoa dại bị gió dữ cuốn đi trên bụi gai cằn cỗi.
Hôm khác, nàng lại băng đồng qua hướng đông, đến một ngọn đồi bao bọc bởi đồng hoang, không được khai khẩn. Đồng hoang nầy lại xuôi xuống một đầm lầy to, sâu, giữa có một dòng suối con, tiếng suối reo róc rách.
Bên kia đầm lầy là một khối đá sừng sững. Người ta cảm tưởng như có một bàn tay xuất hiện từ dưới đầm lầy, đưa mấy ngón lên trời, bề mặt như được đẽo trong đá hoa cương, màu xám buồn buồn. Đó là ngọn Kilmar Tor. Joss Merlyn đã sinh ra tại núi đá nầy và Matthew, em ông đã chết đuối trong đầm kia. Nàng tưởng tượng đến một gã trai trẻ băng qua đồng, miệng huýt sáo vui vẻ, bên tai có nhạc suối phụ họa... Rồi, trời sập tối quá nhanh làm anh ta không kịp đề phòng... Anh ta dừng lại, do dự một giây rồi chặc lưỡi bước càn. Được mươi bước thì anh ta bị lún xuống, bùn ngập gối, anh ta vừa chửi thề vừa cố sức rút chân lên nhưng quá muộn, càng lúc càng bị lún sâu hơn. Anh quờ quạng bám vào một đám cỏ, nhưng vô ích. Anh thét lên thất thanh. Một con quạ đen bay ngang đầu anh, là là trước mặt anh kêu lên ai oán. Rồi nó vỗ cánh dồn dập, bay xa trong khoảnh khắc. Vài ngọn cỏ lay động và yên tĩnh lại bao trùm cảnh vật...
Mary quay lưng về phía Kilmar. Nàng chạy tràn qua khỏi đồng, vấp lên, ngã xuống giữa đám cỏ gai và đá rắn. Nàng chỉ ngừng lại để thở khi vũng lầy mất hút sau đồi. Chao! Nàng đã đi xa hơn nàng muốn. Đường về dài dằng dặc.
Mary thực sự vững tâm khi thấy ống khói của Lữ quán sừng sững ngang tầm mắt. Và nàng hồi hộp khi thấy chuồng ngựa mở toang, ngựa đứng bên trong.
Ông ta đã về!
Mary se sẽ mở cửa, nhưng cánh cửa cọ vào sân gạch kêu lên. Joss hiện ra ở đầu hành lang, tay áo xắn cao, tay cầm chiếc ly và cái khăn. Hình như Joss đang vui? Mary thấy ông ta cầm ly vẫy nàng, giọng ồn ào:
- Ủa? Thấy tôi mà cô không chạy trốn ư? Cô có nhớ chú Joss không?
Mary cố mỉm cười chào ông ta và hỏi cuộc du hành của ông có tốt đẹp chăng.
- Tốt đẹp khỉ khô! Tôi chỉ cần kiếm tiền thôi. Nếu cô muốn biết, tôi trả lời đây. Tôi có vào cung điện thăm Đức Vua!
Đắc ý về câu pha trò của mình, ông ta cười khanh khách.
Patience hiện ra phía sau ông. Bà cũng mỉm cười, song nụ cười của bà tắt tức thì khi chồng bà ngừng lại. Mary nhận thấy dì mình đã trở về với nỗi lo sợ thường xuyên. Nàng lặng lẽ toan rút lui thì Joss gọi giật nàng lại:
- Nghe đây! Chiều nay đừng có trốn trên đó. Có việc làm ở quầy rượu, nghe chưa? Cô biết hôm nay thứ mấy không?
Mary chưa mất ý thức về thời gian. Nàng đến đây hôm thứ hai, vậy hôm nay là thứ bảy. Nàng hiểu chú Joss muốn bảo gì. Sẽ có khách đến Lữ quán Giao Mai.
Họ đến từng người một. Họ băng qua sân, yên lặng và rất nhanh như không muốn ai trông thấy, tuy họ đi trong bóng tối. Họ đi dọc bờ thành đến bên cổng gỗ, gõ cửa và được đưa vào quầy rượu.
Có người mang theo đèn lồng nhưng ánh sáng như làm phiền họ nên họ lấy áo khoác che lại. Vài người đi ngựa, vó ngựa khua đều trong đêm phá tan bầu không khí yên tĩnh của Lữ quán Giao Mai. Kế đó, có tiếng mở cửa chuồng ngựa và tiếng trò truyện thì thào. Có người mũ che khuất mặt, áo choàng cao kín cằm. Họ có vẻ mờ ám, bí mật.
Trong Lữ quán đèn sáng rực rọi qua cái cửa sổ mở rộng. Thường, cửa sổ đóng kín mịt.
Càng về khuya, sự huyên náo càng tăng. Có tiếng cười, tiếng hát, tiếng hò hét. Điều đó chứng tỏ rằng họ đã qua sự dè dặt lúc chưa đặt chân vào bên trong. Vào đến quầy rượu, ngồi giữa bạn bè, miệng phì phào thuốc lá, tay bưng cốc rượu tràn sóng sánh, họ thôi thận trọng.
Đám người tụ họp quanh Joss thật sự kỳ lạ.
Mary đứng trong quầy, khuất sau hàng chai và ly nên nàng dễ quan sát họ mà họ không ngờ. Họ ngồi dạng chân trên ghế hay vắt vẻo trên băng; người dựa vào tường, người thì bách bộ loanh quanh, vài người lại nằm xoài ra đất. Hầu hết họ đều bẩn thỉu, quần áo rách nát, tóc rối bù, móng tay cáu ghét. Đúng là bọn tha phương cầu thực, đầu trộm đuôi cướp.
Trong số chúng, có một lão trại chủ phải bán nông trại không phải vì không khai thác nổi mà vì nổi tiếng lưu manh, một gã chăn cừu đã nổi lửa đốt máy xay của chủ, một tên buôn ngựa bị đuổi khỏi vùng Devon. Một tên khác làm thợ giầy ở Launceston, nhưng thực sự, chuyên tiêu thụ đồ ăn trộm. Lại còn có gã, trước đây vốn là phó thuyền trưởng nhưng lại đánh đắm tàu. Tên nhỏ thó đang gặm móng tay, làm nghề đánh cá, nghe đâu có cả một chiếc vớ đầy vàng cất kỹ trong ống khói, không biết do đâu. Vài tên ở các vùng lân cận, kẻ từ xa. Một gã nom đần độn, và gã nữa có một vệt đỏ bầm trên mặt, suốt từ khi vào nhà, gã không ngừng nắm vệt đó giật giật liên hồi làm Mary phát nôn, muốn ngất đi.
Cảm giác nầy, cộng chung với khói thuốc, mùi rượu, hơi người bẩn nằm ngồi la liệt làm cô càng khó thở. Được cái, nàng không phải đến cạnh họ, nàng chỉ rửa ly và rót đầy rượu, nàmg đứng khuất sau quầy, cố thu mình càng kín càng hay.
Joss đích thân bưng rượu mời khách hàng, lão đi khắp phòng, cười với tên nầy, pha trò với gã nọ, vỗ vai hay ra dấu với kẻ kia. Thoạt thấy Mary, có tên cười ngất, tên thì nhìn cô bằng ánh mắt xoi mói, tên thì rùn vai, nhếch mép, và trong thoáng chốc chúng quên mất cô gái, coi nàng là một cô cháu vợ của Joss, đến giúp việc như đã được nghe giới thiệu. Bọn trai tráng có vẻ muốn trò chuyện với cô song lại sợ tia mắt của Joss, sợ lão nổi giận bất ngờ chăng.
Mary thấy nhẹ nhõm vì được yên thân. Nàng sẽ xấu hổ, nhục nhã nếu biết được ý nghĩ bọn nầy. Dì nàng không ra mặt, song Mary thấy bóng dì sau cửa, một lần nàng bắt gặp tia nhìn sợ sệt của dì.
Đêm như vô tận, bóng người trước mặt Mary lờ mờ, có một lúc bọn họ như nhăn nhó, miệng rộng, tóc bù xù, răng trắng nhởn làm nàng khiếp đảm. Họ uống đến nỗi nằm lăn xuống đất, sùi bọt mép. Bọn còn lại tụ tập quanh một gã nhỏ thó, bẩn thỉu đến từ Redruth. Lão hát nhiều bài hát tục tĩu để làm vui cả bọn. Tiếng cười như muốn rung cả mái nhà song được hãm lại trước vẻ hầm hầm của Joss.
Mary thấy có sự bất thường, man rợ trong những tiếng cười đó, nó từa tựa như tiếng con vật lạ rống lên giữa vách đá tối om.
Tên bán hàng rong đem gã đần ở Dozmary ra làm hề. Gã này say khướt. Chúng đặt gã lên bàn, bắt gã lặp lại bài hát giữa trận cười quái ác. Gã đàn ông được tán thưởng, giật giật vết bầm trên mặt kêu lên ăng ẳng, dễ sợ.
Mary nói với chú Joss:
- Tôi chịu hết nổi, chú cho tôi ra khỏi đây. Chú lo cho họ được rồi.
Joss lấy tay gạt mồ hôi trán, trừng mắt. Lão vẫn tỉnh táo, dù uống liên miên:
- Chịu không nổi hả? Cô là thứ gì chớ? Công chúa hả? Nghe đây. Mầy được yên ổn sau quầy như thế này thì đáng lẽ ra mầy nên quì lạy tao mới phải. Nếu mầy không là cháu vợ tao thì... hà hà... giờ nầy mầy rách như miếng giẻ rồi, con ngốc ạ!
Rồi lão cười hô hố, lấy tay bẹo má cô gái:
- Nhưng thôi được, cho mày de. Cũng gần nửa đêm rồi, ta không cần mầy nữa. Nhớ khóa cửa kỹ, dì cô còn trùm kín đầu nữa kia.
Lão hạ giọng xuống, cúi gần tai Mary, rồi thình lình nắm tay cô bẻ quặt ra sau làm cô gái đau nhói, kêu lên một tiếng.
- Tốt! Đó là cách cảnh cáo để mầy nhớ giữ mình. Câm miệng thì sẽ yên thân.
Lão thôi cười, nhíu mày quan sát cô như đọc được tất cả ý nghĩ cô:
- Cô không trì độn như dì cô, đây là một điều tai hại. Cô có vẻ thông minh và tò mò, khó làm cho cô sợ. Nhưng mà...óc tò mò của cô có thể bóp bẹp như bánh đa. Thôi! Đi đi kẻo ta ngứa mắt.
Lão quay lưng lại, vì sự khinh bỉ của Mary lộ rõ trong mắt cô làm lão điên tiết lên. Lão vứt cái ly trong tay xuống đất, thét to:
- Lột quần áo thằng ngốc ra, cho nó về với mẹ nó! Trời tháng 11 sẽ làm nó mát mẻ. Ta hết muốn thấy trò nhạt nhẽo của nó rồi!
Tên hàng rong và cả bọn làm theo lời Joss, đồng loạt quay sang đè nghiến tên ngốc vùng Dozmary xuống, khiến tên nầy hoảng sợ kêu rống lên.
Mary chạy bay ra khỏi đó, lên phòng, hai tay bịt tai lại mà tiếng cười man rợ, khả ố vẫn dội vang trong hành lang lạnh lẽo vọng đến tai nàng. Mary buồn nôn dữ dội, nằm xoải xuống giường.
Có tiếng cười ồn ào dưới sân rồi một tia sáng từ cái đèn lồng rọi ngay cửa sổ. Mary đến kéo cửa sổ lại. Nàng chợt thấy một bóng đen loã lồ, run rẩy đang rên rỉ. Sau lưng, một đám người do Joss dẫn đầu đang hò hét, tay cầm roi vụt vun vút đuổi theo. Mary thay áo vội vàng và chui vào giường, trùm chăn kín bưng. Dù nhắm mắt, bưng tai, Mary vẫn thấy khuôn mặt bầm tím của tên ngốc đáng thương, vẫn nghe tiếng gào thét yếu ớt của gã khi trợt chân rơi xuống hố.
Cô gái bàng hoàng, nửa thức, nửa ngủ. Nhiều hình ảnh loạn xạ nhảy múa trong đầu nàng. Có lúc cô như lạc giữa đồng hoang, song lại vẫn tỉnh táo mà thấy ánh trăng xuyên qua cửa sổ. Tiếng cười, nói xa dần và tắt hẳn cùng với tiếng vó ngựa, tiếng bánh xe. Nàng thiếp ngủ.
Đột nhiên, Mary choàng tỉnh. Có tiếng động, càng lúc càng rõ hơn, song khi nàng vùng dậy thì chỉ nghe tiếng tim mình đập rộn trong lồng ngực. Rồi có tiếng vật gì đang bị kéo lê sềnh sệch dưới sàn nhà. Nàng khẽ kéo cửa sổ nhìn xuống sân, năm cái xe ngựa cả thẩy, ba có cái mui che kín, hai cái để trần, ngay trước cổng. Ngựa thở phì phò ra khói.
Bọn đàn ông tụ tập quanh xe. Lão thợ giầy đứng ngay cửa sổ nàng nói chuyện với tên lái ngựa. Một tên vuốt ve bờm ngựa. Một gã khác nhảy lên xe, cố sức đỡ một vật nặng. Tuy chưa quen biết, nhờ ánh trăng nàng nhận rõ mặt từng tên. Họ có vẻ nôn nả vì trăng sáng quá. Những vật nặng được kéo lê một cách hối hả, dọc theo hành lang đến cái phòng các cửa đều đóng kín bí mật. Mary chợt hiểu: những kiện hàng xe chở đến được khuân vào đó. Căn cứ vào sự nhọc mệt của ngựa, Mary biết chúng đã tải đồ từ xa đến. Còn một xe có mui không đưa hàng vào quán mà lại chuyển sang xe khác, hàng đủ cỡ: kiện to, kiện nhỏ, kiện tròn, kiện dài được bọc kín trong rơm hay giấy. Gã phu xe nhảy phóc lên ngựa, ra roi chạy liền khi chất đầy hàng. Mary ngạc nhiên thấy lúc nãy thì họ ầm ĩ, náo loạn mà giờ thì chăm chỉ yên lặng. Ngay cả ngựa cũng thế.
Joss Merlyn đi cạnh tên bán hàng rong, không mũ, không áo choàng dù trời lạnh buốt, tay áo xắn cao. Joss cất tiếng trầm trầm:
- Mọi việc êm xuôi chứ?
Tên phu xe gật đầu, giơ tay vẫy. Cả bọn lục tục rời Lữ quán, sau khi chia tay nhau những gói hàng đủ loại. Một tên chất lên ngựa cả khối hàng hóa mà còn mang kè kè một bọc lớn bên mình. Xe và ngựa rẽ theo nhiều hướng, mất dạng trong giây lát.
Lúc này trong sân chỉ còn lại ba người: Joss, một tên lạ mặt và gã hàng rong. Họ cùng vào quầy rượu và đóng sập cửa lại. Mary chỉ còn nghe tiếng đồng hồ tích tắc từ hành lang. Ba tiếng bong bong buông rời rạc.
Mary nghe ớn lạnh cả người. Nàng quàng khăn lên vai cho ấm nhưng vẫn không tài nào ngủ được. Nàng thoáng hiểu là Joss ở trong một tổ chức buôn lậu lớn. Lữ quán Giao Mai quả ở vào một vị trí thuận tiện, Joss mua nó chắc vì lý do nầy. Lữ quán sừng sững, cô độc trên quốc lộ từ Bắc vào Nam. Thật dễ dàng cho một tên gan dạ có óc tổ chức, điều khiển những chuyến hàng từ bờ bể đến phụ lưu sông Tamar. Lữ quán vừa là chỗ nghỉ chân đồng thời cũng là nơi chất chứa hàng lậu. Joss đã dùng đủ mọi hạng người: bọn du mục, bọn hàng rong, thủy thủ...
Có bản lĩnh, đủ hung bạo làm cho bọn thủ hạ tuân theo răm rắp, Joss lại vừa có đủ thông minh để che mắt chính quyền chăng? Joss là thủ lãnh chăng? Chắc chắn thế. Mary thầm nghĩ, nếu không, bọn thô lỗ kia làm thế nào qua mặt được pháp luật? Nếu một quan tòa quan tâm đến bọn buôn lậu, chắc ông ta không thể quên Lữ quán Giao Mai.
Mary cau mày, cắn môi suy tính. Nếu không vì dì, nàng đã tức khắc rời Lữ quán để đi tố cáo Joss ngay. Song dì nàng trung thành với chồng quá đỗi làm cho cô gái thấy khó xử thêm. Nàng nhớ giọng nói sợ sệt, ánh mắt kinh hoàng của dì.
Buôn lậu là một điều phi pháp nhưng có đến nỗi làm dì sợ đến mức đó chăng? Hay còn gì mờ ám hơn?
Mary thấy cần có sự khuyên bảo, nhưng biết nhờ ai?
Nàng chỉ là một cô gái. Giá là trai, sẽ dễ dàng biết bao. Nàng sẽ cướp một con ngựa chở dì trên yên phi nước đại trở về Helford, quên mọi sự. Hoặc nàng sẽ đánh nhau với chúng một trận và... sẽ thắng. Hoặc nàng sẽ đi tố cáo ở một nơi gần nhất...
Cô gái 21 tuổi ngồi thừ, không có khí giới nào khác hơn là bộ óc. Cô biết nếu lão mà hay những ý định trong đầu cô, lão sẽ bóp nát cô ngay, không do dự. Mary đã thề rằng nàng không bao giờ sợ hãi hay là tỏ ra sợ hãi trước Joss hay bất cứ ai. Nàng chỉ sợ một lần trong đời: khi con bò điên đuổi nàng ở Manaccan thôi.
Ý nghĩ đó làm Mary bình tĩnh. Nàng sẽ sàng thay quần áo, mang vớ nhưng không mang giầy. Nàng lướt ra hành lang, nắm tay vịn cần thang, bước xuống. Tiếng đồng hồ giúp nàng can đảm lên.
Cửa quầy rượu được mở và có tiếng người trong bếp, tiếng nói thì thào, ánh sáng xuyên qua hành lang sâu hun hút. Nàng toan quay lên, nhưng sự tò mò thắng ý định ấy. Nàng đi dọc theo hành lang, nép sát vách. Nàng đã thấy rõ sự bừa bãi bên trong quầy rượu: ly cốc ngổn ngang, cả mảnh vỡ do Joss đập ly ban nãy. Mary không thấy họ ngồi đâu. Im lặng rất lâu.
Thốt nhiên có giọng cất lên, át tiếng tim nàng đang dồn dập:
- Không! Merlyn! Anh đừng hòng biến tôi thành quỷ dữ. Tôi thề chấm dứt liên lạc với anh từ hôm nay. Anh bảo tôi nhúng tay vào tội ác tày trời. Đừng hòng!
Giọng gã đàn ông cao lên run rẩy, hình như gã mất hết tự chủ rồi.
Joss Merlyn nói nhỏ hơn, nàng không nghe gì nhưng tiếng cười khả ố của tên bán hàng rong thì không sao quên được.
Người đàn ông đợi tiếng cười thô bỉ kia dứt rồi cất tiếng:
- Treo cổ? Tôi sợ gì cái đó? Đời tôi chả còn nghĩa lý gì. Nhưng lương tâm tôi còn và tôi sợ Thượng Đế toàn năng. Tôi có thể giết địch thủ trong một cuộc chiến đấu rồi nhận hình phạt. Nhưng giết người vô tội, nhất là giết đàn bà, con trẻ thì khác nào đi thẳng địa ngục?
Có tiếng xô ghế, tiếng đập thình xuống bàn, tiếng chửi thề. Lần nầy, Joss la lên:
- Đâu dễ vậy! Đừng giỡn mặt với tao chớ! Mày đã dính chặt vào vụ nầy rồi. Vứt mẹ cái lương tâm của mày đi. Không còn lùi được đâu, trễ quá rồi. Thật tao đoán không sai. Từ đầu, tao đã ngờ cái bộ vó trưởng giả, lương thiện của mày. Mà thôi...
Joss đổi giọng, ra lệnh cho tên hàng rong:
- Harry! Đóng cửa, gài then cẩn thận đi nào!
Có tiếng đấm đá, tiếng bàn ghế gãy đổ. Cửa đóng sầm một tiếng và giọng cười khả ố của Harry làm Mary dựng tóc gáy:
- Bây giờ ta cù hắn như tên Sam lúc nãy nghe? Cũng tội nghiệp nếu ta lột áo quần hắn, nhưng biết làm sao? Hắn tự chuốc vạ vào thân mà! Tôi được lãnh cái đồng hồ tay hắn chứ, anh Joss?
- Câm mồm lại. Hãy làm những gì ta bảo: đứng yên chỗ cửa kính kia và đâm thẳng vào tim nó nếu nó tính trốn.
Quay sang người đàn ông lúc nãy, Joss cất giọng giễu cợt:
- Thưa ông thư ký hành chánh, sao ông điên bất ngờ thế, hở? Ông tưởng đây là thành phố Truno ư? Ông muốn gì? Muốn quất ngựa đi thẳng về Bodmin rồi sáng mai dẫn quan tòa và nửa tiểu đội lính bao vây lữ quán Giao Mai, hử?
Người đàn ông thở hổn hển. Ông ta bị thương chăng? Tiếng ông ta đứt quãng:
- Hãy hoàn thành tội ác của các anh ngay đi nếu các anh muốn thế. Phần tôi, tôi thề không tố cáo các anh và cũng không ngăn cản, nhưng tôi không hợp tác với các anh được nữa.
Im lặng một lúc, nàng nghe thấy Merlyn cười khẩy:
- Coi chừng! Đã có kẻ nói hệt giọng anh và chỉ 5 phút sau hắn được treo cách mặt đất cỡ hơn tấc rưỡi. Tôi có hỏi hắn gần mặt đất như thế hắn vừa lòng chưa, vì hắn là nông dân không ưa xa rời đất. Tiếc thay, hắn hết trả lời được, tuy rằng phải mất đến 7 phút và phần tư giây hắn mới ngưng thở.
Mary nghẹn thở, tay chân như đeo chì, nàng sợ mình sẽ ngất đi, vội vàng lần bước dọc theo hành lang. Không, nàng không thể ngất nơi nầy, lộ mất.
Hai gối run rẩy như chực khuỵu xuống. Đâu nàng choáng váng, nhưng tai vẫn nghe giọng Joss:
- Harry, về đi! Để mình tao xử tội gã nầy. Mầy hết việc rồi. Lấy ngựa của nó mà chuồn ngay, rồi thả ngựa bên vùng Camelford. Tao trị tội nó được!
Lần đến phòng khách, Mary quỵ xuống ngất đi, nhưng rồi nàng tỉnh lại rất mau. Nàng chống tay ngồi lên, lắng nghe tiếng ngựa, tiếng chửi thề và cả hai thứ tiếng xa dần trong bóng tối. Nàng không biết làm cách gì cứu nạn nhân.
Đến Dozmary kêu cứu chăng? Khi nàng trở về, ông ta đã tắt thở rồi. Mà chắc gì nàng cầu cứu được? Có thể dân vùng lân cận đây đều là thuộc hạ của Merlyn. Dì Patience ư? Vô ích. Cầu trời cho người lạ, chỉ còn tự cứu bằng cách nhận lời hợp tác với quân gian bằng không, phải đánh nhau với chủ quán dù ông ta chắc cầm cái bại trong tay. Mary không có khẩu súng hay con dao, nếu làm cho Joss bị thương để cứu được người lạ, nàng không do dự...nhưng...
Bỗng nàng nghe có tiếng động khẽ, rồi sàn lầu kêu răng rắc. Bước chân sẽ sàng tiếp tục.
Ai?
Dì nàng thì nhất định là chết khiếp trong phòng, tên Harry đã đi xa. Joss đang thi hành tội ác trong kia.
Thế thì ai đang lên lầu? Hắn ta đột nhập vào đây từ bao giờ? Kẻ thù hay bạn của Joss? Kẻ lạ mặt chắc không muốn chạm trán cùng bọn buôn lậu? Có thể, ông ta sẽ giúp nạn nhân?
Tia hy vọng lóe sáng trong tim cô gái.
Thình lình cửa quầy rượu bật mở làm Mary hốt hoảng lùi vào nấp sau cửa. Sàn nhà kêu lên răng rắc. Chao ơi! Tim Mary nhói lên. Qua khe cửa, nàng thấy hai bóng người tiến lại nhau: Joss và một kẻ lạ mặt.
Gã đó đặt tay lên vai Joss, hỏi:
- Thế nào?
- Tùy anh quyết định chứ không phải tôi. Anh chỉ việc bảo tôi.
Ngay sau đó, Mary không thể nhìn thấy mà cũng không nghe gì thêm vì kẻ lạ mặt đã kéo tuột Joss vào quầy rượu. Có tiếng của đóng rồi lặng lẽ trở lại.
Hình như có một lúc nàng nghe tiếng kêu yếu ớt thoảng vào tai.
Tiếng kêu cứu của nạn nhân chăng?
Rồi như có tiếng chân ra cổng chính.
Đánh bạo, cô gái lại sát cửa quầy rượu áp tai nghe ngóng: bóng tối và sự im lặng phủ tràn.
Không, chả còn ai bên trong cả.
Nàng đẩy cửa bước vào. Không khí lành lạnh khiến nàng rợn cả người.
Căn phòng trống trơn.
Nhưng hình như không phải vậy. Dưới ánh trăng mờ mờ, nàng thấy rõ có một vật lay động dài ngoằng đong đưa từ trần nhà. Thoạt đầu, Mary nghĩ đến một con rắn buông mình xuống, nhưng khi định thần nhìn kỹ, cô gái chợt rợn người vì khiếp đảm.
Một sợi dây thòng lọng.
Hết chương 3