Thông tin truyện
Tác giả : Minh Quân & Mỹ LanQuốc gia : Việt Nam Thể loại : Kinh dị Số chương : 14 Người đăng : Hồ Vũ Tuấn Anh
Đọc truyện
Serve 1
Mary rụt rè bấm chuông. Chó sủa dữ dội, rồi tiếng chân lạo xạo trên sỏi và cổng hé mở. Một gã đàn ông lực lưỡng quát chó im, đoạn nhìn sững Mary. Nàng nói mau: - Tôi cần gặp ông Bassat có việc gấp. Việc quan trọng nên tôi mới làm phiền vào giờ nầy. - Chủ tôi đi Launceston sáng nay có chuyện gấp, chưa về. - Trời ơi! Nếu tôi không gặp ông ấy thì tên sát nhân sẽ trốn mất. Tôi cầu cứu ai bây giờ? Bác có thể giúp tôi chăng? Van bác. - Có bà ở nhà. Tôi đưa cô vô gặp bà nghe? Đừng sợ chó, không sao. Mary đi theo người đàn ông như đi trong mơ. Nàng bất lực, gặp rủi, không hoàn thành ý định được. Phòng đọc sách của bà Bassat ấm cúng và rộng rãi. Nàng nhận ra người thiếu phụ mua ngựa đang đọc sách cho hai con nghe. Bà ngồi trong ghế bành trước lò sưởi. Kinh ngạc nhìn Mary, bà không thốt một lời nào. Gã đàn ông nhanh nhẩu: - Cô nầy có tin quan trọng báo ông. Tôi đưa cô vào gặp bà. Mary bình tĩnh lại: - Tôi xin được nói chuyện riêng với bà. Bà Bassat quay sang hai con nói nhỏ vài câu và đưa mắt cho tên người nhà. Cả ba cùng lui ra. Giọng bà nhẹ nhàng: - Nào! Tôi có thể giúp chi cô? Nom cô xanh và mệt quá. Cô hãy ngồi kia. - Xin bà cho biết ông về lúc nào? - Tôi cũng chả biết được điều nầy. Tôi đang lo đây. Nếu tên sát nhân chống cự, tôi e nhà tôi bị thương dù là có lính theo. - Thưa bà, bà nói thế nghĩa là sao? Mary hốt hoảng hỏi dồn. - Nhà tôi đến lữ quán Giao Mai. Cô là người lạ, cô không biết chuyện nầy. Tên Joss Merlyn phạm nhiều tội ác, nhưng đến nay mới có bằng cớ rõ ràng. Nhà tôi đã theo dõi hắn từ lâu. Nhà tôi đến Launceston xin thêm lính... Bỗng, bà tái mặt, lùi lại, kêu lên giọng thất thanh: - Hình như... Thôi, phải rồi; nhà tôi có nói đến một người con gái, cháu của Joss. Người đó có phải là cô không? Cô muốn gì? Khuôn mặt Mary trắng bệch cũng như bà chủ nhà: - Xin bà yên tâm! Quả thật tôi là cháu vợ của Joss, nhưng tôi cũng ghét và sợ ông ta như mọi người. Tôi đến đây để báo tin cho ông Bassat biết Joss định trốn đi chiều nay. Tôi có bằng cớ buộc tội ông ấy... Nhưng tôi thật vô dụng. Mary ngồi xuống, chán nản, thờ thẫn. Nàng e rằng Joss khám phá ra sự vắng mặt của nàng và sẽ trốn đi trước giờ dự định. Thế là hỏng. Đáng ra, nàng cứ ở yên. Hai tay bưng mặt, Mary nói gần như không ra tiếng: - Tôi đã làm một việc điên rồ. Bà Bassat đến gần cô gái, đặt tay lên vai nàng: - Cô có vẻ lương thiện và thành thực. Xin lỗi, thoạt đầu tôi đã ngờ oan cô. Cô can đảm lắm. Đêm hôm thế nầy mà cô chịu khó đến đây. Nếu là tôi chắc tôi điên lên vì sợ. Tôi sẵn sàng giúp cô, nhưng cô cần gì đây? - Thưa bà! Chắc ông nhà sẽ nổi giận vì tôi ngu dại bỏ đi đến đây làm cho chủ quán đoán biết, trốn đi sớm hơn, hỏng việc của ông. - Không sao, cô đừng lo, tôi sẽ nói giúp cô. - Thưa bà, làm sao ông biết được việc nầy bất ngờ như vậy? - Tôi không rõ lắm. Sáng nay có người đến tìm nhà tôi, ông chỉ nói sơ qua với tôi. Thôi, cô đừng bận tâm, quên nó đi. Cô đói lắm phải không? Bà đến giật chuông. Người đàn ông ban nãy thò mặt vào và bà chủ dặn anh ta dọn bữa cho Mary. Cô cố ngồi ăn, nhưng đầu óc quay cuồng. Bà Bassat muốn nàng quên nỗi lo lắng, không ngớt nói chuyện. Bà không ngờ điều đó càng làm cô gái bứt rứt thêm. Khi đồng hồ gõ 8 tiếng, Mary không kiên nhẫn nữa. Ngồi yên lúc nầy với nàng còn khổ hơn bị rượt đuổi, nàng nhớ đến nguy hiểm đang chờ dì ở Giao Mai. Mary đứng lên: - Thưa bà, tôi cảm ơn lòng tốt của bà, nhưng tôi không thể ngồi đợi được. Tôi lo cho dì tôi quá. Tôi muốn trở lại lữ quán. - Tôi cũng hiểu vậy. Tôi muốn giúp cô quên chuyện nầy trong giây lát. Tôi cũng lo cho nhà tôi quá. Cô trở lại đó một mình sao được? Bà nhìn Mary vẻ thương cảm rồi lại nói: - Hay là tôi bảo Richards đánh xe đưa cô đi? Anh ta khôn lắm. Nếu đến chân đồi mà thấy trên đó đang đánh nhau thì đừng lên, phải chờ cho yên đã. Tôi cũng muốn đi với cô, nhưng sức khoẻ tôi kém lắm. - Vâng! Cảm ơn bà. Tôi đi được, thế thì tốt quá. Tôi không sợ gì cả. Nếu một mình, tôi cũng phải đi. Bà chủ rung chuông gọi gia nhân: - Bảo Richards đem xe ra, nhanh lên! Đoạn, bà lấy cho cô gái một cái áo choàng dầy cộm và cái chăn. Bà không ngớt nói lấy làm tiếc không cùng đi với Mary được. Trái lại, cô gái rất mừng khi thấy bà không đi. Nàng sợ có bà, cuộc hành trình sẽ bị chậm trễ. Richards, tên gia nhân, từng đến lữ quán một lần trước đây, ban đầu nom có vẻ bực bội, nhưng khi nghe rõ nhiệm vụ, lấy làm hài lòng. Với hai khẩu súng lục kèm hai bên hông, anh ta được lệnh bắn vào kẻ nào cản trở hay đe dọa hai người. Nom anh ta có vẻ oai vệ hơn bao giờ. Mary leo ngồi cạnh anh. Bầy chó sủa vang lên như từ biệt họ. Mary bằng lòng và tỉnh táo trở lại. Song khi xe ra khỏi cổng, căn nhà khuất dạng nàng mới cảm thấy nàng đã liều lĩnh mà trở lại Giao Mai. Nàng đi vắng 5 giờ liền, có trời mới biết chuyện gì đã xảy ra ở lữ quán trong lúc nàng vắng mặt. Tuy nhiên, cô không hối về quyết định nầy, cô cũng không tính toán gì cả, sẽ tùy cơ ứng biến. Trăng lên cao, gió tạt vào mặt lạnh buốt. Biết rằng mình lao vào hiểm nguy, Mary vẫn dễ chịu hơn ngồi trong căn nhà ấm cúng chịu chuyện bà Bassat. Richards có mang vũ khí, nàng cũng biết sử dụng khi cần. Mỗi khi anh ta gợi chuyện, nàng chỉ trả lời vắn tắt. Tâm trí nàng đang gởi ở Giao Mai, nơi dì nàng đang lâm nguy. Suốt cuộc hành trình, vó ngựa vang đều đặn. Trăng chiếu sáng khiến con đường ngoằn ngoèo như một dải băng trắng trong đêm, hai bên đồng hoang vắng lặng. Rồi quanh họ càng hoang vu, trống trải khi xe lên dốc. Gió lạnh như cắt, mang theo mùi sình lầy và cỏ dại trong gió. Không một dấu vết gì chứng tỏ có xe hay người, trừ xe chở Mary và Richards. Có tiếng cú rúc đâu đó vàng tăng vẻ rùng rợn, bí mật. Richards cất tiếng xé tan yên lặng: - Chúng ta sẽ gặp họ tại lữ quán. Cô sẽ thấy chủ quán bị trói chặt hai tay đang nguyền rủa chủ tôi. Thế nào dân chúng quanh đây cũng mở đại tiệc ăn mừng. Được tự tay trói Joss chắc chủ tôi thích lắm. - Nhưng nếu lão thoát được thì sao? Lão thạo đồng hoang như lão biết bàn tay có mấy ngón. Tôi lo quá. - Chủ tôi cũng sinh trưởng tại đây. Nếu có một cuộc săn đuổi trên đồng, tôi cá là chủ tôi sẽ thắng. Gần 50 năm, ông săn bắn trong vùng, một con chồn cũng khó thoát khi ông muốn bắt. Nhưng cô đừng lo, tôi tin là con mồi sẽ bị thộp tại hang. Ông trời có mắt. Mary im lặng nghe Richards nói, tiếng nói anh ta không làm nàng chán và mệt như những mẩu chuyện của bà Bassat. Cái lưng rộng và khuôn mặt lương thiện của anh giúp nàng vững dạ. Xe đang ở dưới chân dốc dẫn đến lữ quán Giao Mai. Trên đỉnh đồi, các ống khói đen xuất hiện. Richards đưa tay sờ vào súng và tằng hắng. Tim Mary đập loạn trong ngực, cô nắm chắc thành xe. Richards bảo: - Cô ngồi yên đây, để tôi lên xem họ đến chưa? - Không được. Anh không biết bằng tôi. Anh theo sau tôi hay đợi, có gì tôi sẽ kêu anh. Im lặng kiểu nầy, tôi e là ông Bassat chưa dẫn lính đến và chủ quán trốn rồi. Nếu không, lão còn trong nhà. Cho tôi mượn khẩu súng. Tôi không sợ gì đâu. - Nếu cô chạm mặt lão và tôi không nghe được tiếng cô kêu thì sao?... Richards hỏi... Lạ quá, đáng ra phải có tiếng reo hò, tiếng súng nổ mới phải. Ta nên chờ. - Tôi sốt ruột quá rồi. Muốn điên lên. Thà chạm mặt với kẻ ác, hơn là chờ đợi. Tội nghiệp dì tôi, bà vô tội, anh Richards ạ! Ngừng lại thở, rồi Mary tiếp: - Anh hãy tin tôi. Tôi quen với hiểm nguy rồi. Có gì tôi sẽ bắn lên một phát cho anh hay. Tôi không chui đầu vào bẫy. Không nên vô một lượt cả hai. Nàng cầm lấy khẩu súng trong khi Richards còn do dự. Mary hy vọng là Joss đã trốn rồi, như vậy câu chuyện chấm dứt êm thắm. Vùng nầy sẽ tránh được sự phiền nhiễu do lão gây ra. Lão sẽ làm lại cuộc đời hay say sưa cho tới chết. Lúc nầy, Mary không mong lão bị bắt nữa. Trả thù làm gì cơ chứ. Nàng đã tỏ ra mạnh dạn trước Richards nhưng bây giờ nàng cũng lo phải chạm mặt Joss. Mary cảm thấy lạnh xương sống khi nghĩ đến lão hiện ra, mắt đỏ ngầu. Ngừng lại trước sân, Mary nhìn nhớn nhác xung quanh và khi thấy ngay sau nàng có Richards và cỗ xe, nàng vững lòng bước tới. Sân trống rỗng, chuồng ngựa đóng kín. Lữ quán im lìm, tối om như cách đây 7 tiếng đồng hồ, khi nàng ra đi. Không có vết bánh xe cũng như dấu vết hành lý. Cửa sổ phòng nàng vẫn y nguyên. Mary đợi một lúc. Có tiếng ngựa hí và dậm chân trong chuồng. A! Ra họ chưa đi? Tim Mary như thắt lại, nàng không biết nên quay lui với Richards đợi lính và ông Bassat đến, hay cứ vào? Lạ quá! Nếu định đi, lão đã đi rồi mới phải chớ. Tình cảnh trở nên lạ lùng, khó hiểu. Mary núp ở cổng, nghe ngóng, rồi đánh bạo vặn quả nắm. Cửa khóa chặt. Nàng vòng ngã sau, ngang quầy rượu, rồi đến bếp. Đứng bên cửa sổ, Mary dán mắt vào nhưng không một tia sáng chiếu ra. Bếp tối om như đáy giếng sâu. Thử vặn qua nắm, Mary kinh ngạc thấy cửa không khóa. Mary rợn người, toan lùi lại. Nếu Joss ngồi trên ghế, hườm sẳn súng chờ nàng? Ừ! Nàng có súng đấy, song quả tình, Mary không tin tưởng tài sử dụng súng của mình. Nhưng Mary không lùi được nữa, thà chạm mặt cái chết hơn là bị dí súng sau lưng. Mary chậm rãi thận trọng thò đầu vào. Không một tiếng động. Tro tàn gần hết trong lò sưởi. Mary đoán là không có ai trong bếp từ nhiều giờ qua nên mạnh dạn đẩy cửa bước vô. Mắt quen dần với bóng tối, Mary nhận rõ hình dạng mọi vật bên trong. Trên bàn có mẩu nến, nàng dí vào lò sưởi đốt lên, soi quanh. Hành lý la liệt: quần áo của dì nàng, xoong chảo, nồi niêu, mấy cái chăn da bừa bãi, chưa cuốn gọn. Trong góc, khẩu súng trường còn treo chỗ cũ. Chắc họ đổi ý, muốn nán lại thêm một ngày nữa chăng? Cửa hành lang mở toang, im lặng đầy đe dọa. Có cái gì đó đã thay đổi, Mary cảm mà không nhớ rõ. Nàng đứng im, cố trấn an và hồi tưởng lại. Chỉ một phút sau, Mary hiểu ngay sự khác thường đó: không có tiếng tích tắc đều đặn của cái đồng hồ. Mary bước ra hành lang, tay cầm đèn, tay kia khư khư khẩu súng. Đến cửa phòng khách, Mary thấy cái đồng hồ treo đối diện cửa phòng khách rơi xuống từ hồi nào, úp mặt xuống đất, mảnh kính đồng hồ vỡ văng tung tóe. Và rồi, Mary suýt ngất đi. Joss Merlyn, chính lão, mặt úp xuống giữa mảnh vỡ, hai tay giơ cao, một tay bám cái đồng hồ, hai chân duỗi thẳng. Nom Joss to lớn dị thường. Trên nền nhà, vết máu loang lổ. Giữa hai vai chủ quán, quanh chỗ bị đâm cũng có vết máu đen và khô. Joss bị đâm lén sau lưng, trước khi ngã gục đã chồm đến, kéo theo cái đồng hồ. Ông chết cứng rồi! Mary đứng sững không biết là bao lâu. Tất cả oán ghét, thù hận trong lòng nàng tiêu tan. Mắt nàng vẫn dán chặt vào xác chết bất động và những mảnh kính vỡ đẫm máu. Ánh đèn chiếu yếu ớt trên vách, trên lầu vẫn tối om. Mary không thể nào bước thêm một bước. Không khí trong lữ quán hôm nay đã thật sự nhuộm mùi máu, lạnh lẽo rợn người. Nàng cố gắng để không thét lên hay chạy trốn. Mary rùng mình, tưởng sắp ngã khụy, nàng cố gắng để không buông rơi đèn, cho bóng tối vây phủ quanh nàng. Hai chân như bị chôn chặt xuống đất. Gió lung linh ngọn nến trên tay. Sau cùng, Mary nghĩ: Joss đã chết, đâu hại mình được mà sợ nữa. Nhưng nàng vẫn chạy biến như ma đuổi sau lưng. Mary chạy như điên, miệng ú ớ không ra lời. Richards đưa hai tay đón nàng. Mary nắm tay anh như tìm sự che chở, răng va nhau cầm cập, toàn thân run rẩy. Một lát sau, nàng hổn hển nói đứt quãng: - Joss chết rồi! Chết... thật rồi. Tôi thấy ổng nằm dài dưới đất... Bị đâm sau lưng... Máu loang khắp... Có lẽ chết lâu rồi... Tối om trong đó... Không còn ai hết... Người đàn ông tỉnh táo hơn: - Còn dì cô đâu? - Tôi không thấy dì tôi... Hãi quá, tôi e là... Richards dịu dàng đỡ cô gái lên xe và ngồi cạnh nàng: - Lỗi tại tôi, đã xiêu lòng để cô vô một mình. Bình tĩnh lại đi! Nào! Cô Mary ! Mary trấn tĩnh rất nhanh, cô bảo anh ta: - Ngựa còn trong chuồng. Hành lý vẫn ngổn ngang. - Lạ thật! Sao ông Bassat chưa đến? Cả hai đều mong ông đến. Richards thắc mắc: - Ai giết lão kia? Trong vùng, ai cũng ghét lão, nhưng giết lão thì... Sau đó, anh im lặng. Cả hai đều không dám lên tiếng trước, Richards vì tế nhị, còn Mary thì vì... sợ. Nhưng sau cùng nàng lên tiếng: - Chắc dì tôi cũng chết rồi. - Không đâu. Có thể bà trốn đi cầu cứu cũng nên. - Không. Tôi biết dì tôi, bà không bao giờ tố cáo chồng. Trời ơi, nếu tôi đừng đi tố cáo ông ta, có lẽ dì tôi sống được. Richards không biết dùng lời gì an ủi cô gái. Anh chỉ mong chủ đến. Trong lúc chờ đợi, anh khoác áo choàng vào cho Mary, âu yếm như đối với một em nhỏ. Bỗng Mary kêu lên: - Anh nghe kìa! Có vó ngựa. Richards lắng tai và reo lên: - Đúng rồi, chủ tôi đến. Một phút sau, người kỵ mã đầu tiên hiện ra như một chấm đen trên con đường trắng, theo sau là nhiều người nữa. Tiếng động to dần. Richards chạy bay về phía họ, la ầm ĩ, tay vẫy lia lịa. Ông Bassat, người kỵ mã đầu tiên, kinh ngạc kêu lên: - Richards! Làm gì đây? - Thưa, Joss Merlyn chết rồi, lão bị ám sát. Bà sai tôi tới đây, cùng cô bé cháu vợ lão. Vừa giữ ngựa cho chủ xuống, anh ta vừa kể lại câu chuyện. Ông Bassat nói: - Hắn chết không đáng tiếc. Ta chỉ tiếc không được chính tay ta còng hắn lại thôi. Nào, các anh vào trước, ta cần hỏi chuyện cô bé nầy. Ông kinh ngạc khi biết Mary vượt ngần ấy đoạn đường đến báo tin cho ông, nhưng ông cũng nghiêm nghị trách nàng: - Tại sao khi tôi đến, cô lại nói dối tôi? Bảo không biết gì cả? Tôi ngờ là cô đồng lõa với quân gian. - Tôi vì dì tôi. Vả lại, lúc đó tôi cũng chưa biết gì nhiều bằng bây giờ. Ông tòa nhìn cô gái từ đầu chí chân, giọng ông dịu xuống: - Dù sao, cô rất đáng khen. Nhưng cô kiệt sức rồi, hãy ngồi trên xe mà nghỉ chân. Rồi ông gọi Richards lại dìu Mary lên xe. Sân chìm trong bóng tối giờ sáng rực. Tiếng ngựa hí, tiếng người nói chuyện vang lên. Trong một chốc, các cửa nẻo mở toang. Rồi có tiếng người nói to: - Còn một xác chết trên lầu nữa! Mary tái mét, nhắm nghiền mắt. Giọng ông Bassat vọng lên bên tai: - Có tin buồn cho cô, Mary! Nhưng tôi tin là dì cô không phải đau đớn. Bà chết liền tại cửa phòng, bà cũng bị đâm như Joss. Tôi xin chia buồn cùng cô. Mary mở bừng mắt. Ông Bassat đứng cạnh nàng, buồn rầu nhắc đi, nhắc lại rằng dì nàng chết ngay không phải đau đớn. Mary ngồi im, nàng cầu nguyện cho dì tìm được sự giải thoát bình yên, nàng xin dì tha thứ cho nàng, cho hành động nàng, hiểu lòng nàng. Nàng mong mẹ nàng đón lấy dì. Những ý nghĩ ấy an ủi Mary chút đỉnh, vì cô gái vẫn cho là dì nàng chết vì mình. Rồi nàng nhớ lời Jean: "Tôi chưa hề giết người" và lời bà thầy bói: "Tay anh sắp đẫm máu. Anh sẽ giết người". Những điều nầy, tuy rời rạc nhưng đều như tố cáo Jean, có thể lắm, vốn ghét anh sẵn, Jean dám phạm tội sát nhân. Tởm quá! Trời ơi! Giá nàng đừng đi! Nàng sẽ chết luôn. Nàng chả hối tiếc gì. Tởm quá! Người nàng yêu... Hừ! Bây giờ nàng chỉ cần khẽ nói với ông Bassat: "Tôi biết kẻ giết người!" và đưa ông cùng đoàn tùy tùng đến nhà Jean... Dễ quá, nhưng tại sao nàng do dự? Bỗng có tiếng vó ngựa thật gấp rồi đều đặn, hòa hưỡn trước quán. Cũng như mọi người, Mary hồi hộp, chờ đợi. Ông Bassat bước ra khi người kỵ sĩ ngừng lại: - Nhân danh đức vua, tôi hỏi anh làm gì trong đêm tối trên con đường nầy? Người kia kéo cương ngựa, bước vào. Khi ông cúi xuống, Mary thấy mớ tóc trắng toát quen thuộc và giọng ông dịu dàng, chậm rãi như thường lệ: - Ông là ông Bassat ở North Hill? Mary Hellan đến cầu cứu với tôi, nhưng tôi đến quá trễ. Tôi là cha phó xứ Altarnun. Mary ngồi lặng trong phòng ăn nhà cha xứ. Mọi người quá tốt với nàng, nhất là ông Bassat, ông vỗ về nàng như dỗ đứa trẻ con: - Cô hãy quên mọi sự. Không bao lâu kẻ giết dì cô sẽ đền tội. Và khi nào cô khuây khỏa, muốn đi đâu, làm gì, tôi sẽ giúp cô được như ý. Cô đã làm hết sức cô, không có gì đáng trách. Mary không nghe gì, không thấy gì mà cùng không thiết gì. Cô không tự quyết định gì. Khi cha Davey đề nghị đích thân đưa nàng về nhà ông, thì ai cũng hài lòng. Nếu Mary là đàn ông, mọi sự chắc khác hẳn. Người ta buộc cô đến Bodmin hay Launceston để ra tòa. Nàng sẽ lo lấy chỗ ở nơi ăn và khi xong mọi thủ tục cần thiết, cô sẽ cút xéo đi đâu tùy ý, không ai quan tâm đến. Nhưng tối qua, người ta vội vã đưa cô ra khỏi lữ quán, nơi xảy ra án mạng. Lại đối xử hết sức tử tế, dịu dàng. Và mọi người cho là cô đến nhà cha phó thật đúng thật phải, không có cách nào hơn. Một giờ đêm, cha phó đưa Mary về đến nhà. Cha gọi bà giúp việc dậy, dọn giường cho cô gái. Bà đốt lửa, trải giường, hơ ấm áo ngủ cho Mary. Nàng sắp thiếp ngủ thì một giọng êm ái và cương quyết nâng đầu nâng lên: - Hãy uống cái nầy, Mary! Cha Francis đứng trên đầu giường, tay bưng ly nước, nhìn nàng bằng đôi mắt thủy tinh, không biểu lộ gì hết, ra lệnh. Mary lặng lẽ vâng lời. Nhờ chất thuốc an thần trong ly, Mary ngủ một giấc liền 14 tiếng đồng hồ. Khi nàng tỉnh dậy, cha Francis vắng mặt. Mary lại nghĩ đến tội ác Jean, lại đau đớn vì cái chết của dì. Nàng đi ra, đi vào nóng nảy, nôn nao, chỉ mong cha phó trở về. Nàng sẽ kể hết, kể hết. Jean sẽ bị treo cổ đền tội như anh. Nàng sẽ trở về Helford, nhưng lòng tan nát, can đảm tiêu tan. Mary biết mình không thể yêu ai khác nữa, ngoài Jean. Định mệnh tàn khốc quá!Hết phần mở đầu
Chọn chương để xem
Serve 1
Mary rụt rè bấm chuông. Chó sủa dữ dội, rồi tiếng chân lạo xạo trên sỏi và cổng hé mở. Một gã đàn ông lực lưỡng quát chó im, đoạn nhìn sững Mary.
Nàng nói mau:
- Tôi cần gặp ông Bassat có việc gấp. Việc quan trọng nên tôi mới làm phiền vào giờ nầy.
- Chủ tôi đi Launceston sáng nay có chuyện gấp, chưa về.
- Trời ơi! Nếu tôi không gặp ông ấy thì tên sát nhân sẽ trốn mất. Tôi cầu cứu ai bây giờ? Bác có thể giúp tôi chăng? Van bác.
- Có bà ở nhà. Tôi đưa cô vô gặp bà nghe? Đừng sợ chó, không sao.
Mary đi theo người đàn ông như đi trong mơ. Nàng bất lực, gặp rủi, không hoàn thành ý định được.
Phòng đọc sách của bà Bassat ấm cúng và rộng rãi. Nàng nhận ra người thiếu phụ mua ngựa đang đọc sách cho hai con nghe. Bà ngồi trong ghế bành trước lò sưởi.
Kinh ngạc nhìn Mary, bà không thốt một lời nào.
Gã đàn ông nhanh nhẩu:
- Cô nầy có tin quan trọng báo ông. Tôi đưa cô vào gặp bà.
Mary bình tĩnh lại:
- Tôi xin được nói chuyện riêng với bà.
Bà Bassat quay sang hai con nói nhỏ vài câu và đưa mắt cho tên người nhà. Cả ba cùng lui ra. Giọng bà nhẹ nhàng:
- Nào! Tôi có thể giúp chi cô? Nom cô xanh và mệt quá. Cô hãy ngồi kia.
- Xin bà cho biết ông về lúc nào?
- Tôi cũng chả biết được điều nầy. Tôi đang lo đây. Nếu tên sát nhân chống cự, tôi e nhà tôi bị thương dù là có lính theo.
- Thưa bà, bà nói thế nghĩa là sao? Mary hốt hoảng hỏi dồn.
- Nhà tôi đến lữ quán Giao Mai. Cô là người lạ, cô không biết chuyện nầy. Tên Joss Merlyn phạm nhiều tội ác, nhưng đến nay mới có bằng cớ rõ ràng. Nhà tôi đã theo dõi hắn từ lâu. Nhà tôi đến Launceston xin thêm lính...
Bỗng, bà tái mặt, lùi lại, kêu lên giọng thất thanh:
- Hình như... Thôi, phải rồi; nhà tôi có nói đến một người con gái, cháu của Joss. Người đó có phải là cô không? Cô muốn gì?
Khuôn mặt Mary trắng bệch cũng như bà chủ nhà:
- Xin bà yên tâm! Quả thật tôi là cháu vợ của Joss, nhưng tôi cũng ghét và sợ ông ta như mọi người. Tôi đến đây để báo tin cho ông Bassat biết Joss định trốn đi chiều nay. Tôi có bằng cớ buộc tội ông ấy... Nhưng tôi thật vô dụng.
Mary ngồi xuống, chán nản, thờ thẫn. Nàng e rằng Joss khám phá ra sự vắng mặt của nàng và sẽ trốn đi trước giờ dự định. Thế là hỏng. Đáng ra, nàng cứ ở yên. Hai tay bưng mặt, Mary nói gần như không ra tiếng:
- Tôi đã làm một việc điên rồ.
Bà Bassat đến gần cô gái, đặt tay lên vai nàng:
- Cô có vẻ lương thiện và thành thực. Xin lỗi, thoạt đầu tôi đã ngờ oan cô. Cô can đảm lắm. Đêm hôm thế nầy mà cô chịu khó đến đây. Nếu là tôi chắc tôi điên lên vì sợ. Tôi sẵn sàng giúp cô, nhưng cô cần gì đây?
- Thưa bà! Chắc ông nhà sẽ nổi giận vì tôi ngu dại bỏ đi đến đây làm cho chủ quán đoán biết, trốn đi sớm hơn, hỏng việc của ông.
- Không sao, cô đừng lo, tôi sẽ nói giúp cô.
- Thưa bà, làm sao ông biết được việc nầy bất ngờ như vậy?
- Tôi không rõ lắm. Sáng nay có người đến tìm nhà tôi, ông chỉ nói sơ qua với tôi. Thôi, cô đừng bận tâm, quên nó đi. Cô đói lắm phải không?
Bà đến giật chuông. Người đàn ông ban nãy thò mặt vào và bà chủ dặn anh ta dọn bữa cho Mary.
Cô cố ngồi ăn, nhưng đầu óc quay cuồng. Bà Bassat muốn nàng quên nỗi lo lắng, không ngớt nói chuyện. Bà không ngờ điều đó càng làm cô gái bứt rứt thêm.
Khi đồng hồ gõ 8 tiếng, Mary không kiên nhẫn nữa. Ngồi yên lúc nầy với nàng còn khổ hơn bị rượt đuổi, nàng nhớ đến nguy hiểm đang chờ dì ở Giao Mai. Mary đứng lên:
- Thưa bà, tôi cảm ơn lòng tốt của bà, nhưng tôi không thể ngồi đợi được. Tôi lo cho dì tôi quá. Tôi muốn trở lại lữ quán.
- Tôi cũng hiểu vậy. Tôi muốn giúp cô quên chuyện nầy trong giây lát. Tôi cũng lo cho nhà tôi quá. Cô trở lại đó một mình sao được?
Bà nhìn Mary vẻ thương cảm rồi lại nói:
- Hay là tôi bảo Richards đánh xe đưa cô đi? Anh ta khôn lắm. Nếu đến chân đồi mà thấy trên đó đang đánh nhau thì đừng lên, phải chờ cho yên đã. Tôi cũng muốn đi với cô, nhưng sức khoẻ tôi kém lắm.
- Vâng! Cảm ơn bà. Tôi đi được, thế thì tốt quá. Tôi không sợ gì cả. Nếu một mình, tôi cũng phải đi.
Bà chủ rung chuông gọi gia nhân:
- Bảo Richards đem xe ra, nhanh lên!
Đoạn, bà lấy cho cô gái một cái áo choàng dầy cộm và cái chăn. Bà không ngớt nói lấy làm tiếc không cùng đi với Mary được. Trái lại, cô gái rất mừng khi thấy bà không đi. Nàng sợ có bà, cuộc hành trình sẽ bị chậm trễ.
Richards, tên gia nhân, từng đến lữ quán một lần trước đây, ban đầu nom có vẻ bực bội, nhưng khi nghe rõ nhiệm vụ, lấy làm hài lòng. Với hai khẩu súng lục kèm hai bên hông, anh ta được lệnh bắn vào kẻ nào cản trở hay đe dọa hai người. Nom anh ta có vẻ oai vệ hơn bao giờ.
Mary leo ngồi cạnh anh. Bầy chó sủa vang lên như từ biệt họ. Mary bằng lòng và tỉnh táo trở lại.
Song khi xe ra khỏi cổng, căn nhà khuất dạng nàng mới cảm thấy nàng đã liều lĩnh mà trở lại Giao Mai. Nàng đi vắng 5 giờ liền, có trời mới biết chuyện gì đã xảy ra ở lữ quán trong lúc nàng vắng mặt. Tuy nhiên, cô không hối về quyết định nầy, cô cũng không tính toán gì cả, sẽ tùy cơ ứng biến.
Trăng lên cao, gió tạt vào mặt lạnh buốt. Biết rằng mình lao vào hiểm nguy, Mary vẫn dễ chịu hơn ngồi trong căn nhà ấm cúng chịu chuyện bà Bassat. Richards có mang vũ khí, nàng cũng biết sử dụng khi cần. Mỗi khi anh ta gợi chuyện, nàng chỉ trả lời vắn tắt. Tâm trí nàng đang gởi ở Giao Mai, nơi dì nàng đang lâm nguy.
Suốt cuộc hành trình, vó ngựa vang đều đặn. Trăng chiếu sáng khiến con đường ngoằn ngoèo như một dải băng trắng trong đêm, hai bên đồng hoang vắng lặng.
Rồi quanh họ càng hoang vu, trống trải khi xe lên dốc. Gió lạnh như cắt, mang theo mùi sình lầy và cỏ dại trong gió. Không một dấu vết gì chứng tỏ có xe hay người, trừ xe chở Mary và Richards. Có tiếng cú rúc đâu đó vàng tăng vẻ rùng rợn, bí mật. Richards cất tiếng xé tan yên lặng:
- Chúng ta sẽ gặp họ tại lữ quán. Cô sẽ thấy chủ quán bị trói chặt hai tay đang nguyền rủa chủ tôi. Thế nào dân chúng quanh đây cũng mở đại tiệc ăn mừng. Được tự tay trói Joss chắc chủ tôi thích lắm.
- Nhưng nếu lão thoát được thì sao? Lão thạo đồng hoang như lão biết bàn tay có mấy ngón. Tôi lo quá.
- Chủ tôi cũng sinh trưởng tại đây. Nếu có một cuộc săn đuổi trên đồng, tôi cá là chủ tôi sẽ thắng. Gần 50 năm, ông săn bắn trong vùng, một con chồn cũng khó thoát khi ông muốn bắt. Nhưng cô đừng lo, tôi tin là con mồi sẽ bị thộp tại hang. Ông trời có mắt.
Mary im lặng nghe Richards nói, tiếng nói anh ta không làm nàng chán và mệt như những mẩu chuyện của bà Bassat. Cái lưng rộng và khuôn mặt lương thiện của anh giúp nàng vững dạ.
Xe đang ở dưới chân dốc dẫn đến lữ quán Giao Mai. Trên đỉnh đồi, các ống khói đen xuất hiện. Richards đưa tay sờ vào súng và tằng hắng. Tim Mary đập loạn trong ngực, cô nắm chắc thành xe.
Richards bảo:
- Cô ngồi yên đây, để tôi lên xem họ đến chưa?
- Không được. Anh không biết bằng tôi. Anh theo sau tôi hay đợi, có gì tôi sẽ kêu anh. Im lặng kiểu nầy, tôi e là ông Bassat chưa dẫn lính đến và chủ quán trốn rồi. Nếu không, lão còn trong nhà. Cho tôi mượn khẩu súng. Tôi không sợ gì đâu.
- Nếu cô chạm mặt lão và tôi không nghe được tiếng cô kêu thì sao?... Richards hỏi... Lạ quá, đáng ra phải có tiếng reo hò, tiếng súng nổ mới phải. Ta nên chờ.
- Tôi sốt ruột quá rồi. Muốn điên lên. Thà chạm mặt với kẻ ác, hơn là chờ đợi. Tội nghiệp dì tôi, bà vô tội, anh Richards ạ!
Ngừng lại thở, rồi Mary tiếp:
- Anh hãy tin tôi. Tôi quen với hiểm nguy rồi. Có gì tôi sẽ bắn lên một phát cho anh hay. Tôi không chui đầu vào bẫy. Không nên vô một lượt cả hai. Nàng cầm lấy khẩu súng trong khi Richards còn do dự.
Mary hy vọng là Joss đã trốn rồi, như vậy câu chuyện chấm dứt êm thắm. Vùng nầy sẽ tránh được sự phiền nhiễu do lão gây ra. Lão sẽ làm lại cuộc đời hay say sưa cho tới chết. Lúc nầy, Mary không mong lão bị bắt nữa. Trả thù làm gì cơ chứ. Nàng đã tỏ ra mạnh dạn trước Richards nhưng bây giờ nàng cũng lo phải chạm mặt Joss. Mary cảm thấy lạnh xương sống khi nghĩ đến lão hiện ra, mắt đỏ ngầu.
Ngừng lại trước sân, Mary nhìn nhớn nhác xung quanh và khi thấy ngay sau nàng có Richards và cỗ xe, nàng vững lòng bước tới.
Sân trống rỗng, chuồng ngựa đóng kín. Lữ quán im lìm, tối om như cách đây 7 tiếng đồng hồ, khi nàng ra đi. Không có vết bánh xe cũng như dấu vết hành lý. Cửa sổ phòng nàng vẫn y nguyên.
Mary đợi một lúc. Có tiếng ngựa hí và dậm chân trong chuồng. A! Ra họ chưa đi?
Tim Mary như thắt lại, nàng không biết nên quay lui với Richards đợi lính và ông Bassat đến, hay cứ vào? Lạ quá! Nếu định đi, lão đã đi rồi mới phải chớ. Tình cảnh trở nên lạ lùng, khó hiểu.
Mary núp ở cổng, nghe ngóng, rồi đánh bạo vặn quả nắm.
Cửa khóa chặt.
Nàng vòng ngã sau, ngang quầy rượu, rồi đến bếp. Đứng bên cửa sổ, Mary dán mắt vào nhưng không một tia sáng chiếu ra. Bếp tối om như đáy giếng sâu. Thử vặn qua nắm, Mary kinh ngạc thấy cửa không khóa.
Mary rợn người, toan lùi lại.
Nếu Joss ngồi trên ghế, hườm sẳn súng chờ nàng?
Ừ! Nàng có súng đấy, song quả tình, Mary không tin tưởng tài sử dụng súng của mình.
Nhưng Mary không lùi được nữa, thà chạm mặt cái chết hơn là bị dí súng sau lưng.
Mary chậm rãi thận trọng thò đầu vào.
Không một tiếng động. Tro tàn gần hết trong lò sưởi. Mary đoán là không có ai trong bếp từ nhiều giờ qua nên mạnh dạn đẩy cửa bước vô.
Mắt quen dần với bóng tối, Mary nhận rõ hình dạng mọi vật bên trong. Trên bàn có mẩu nến, nàng dí vào lò sưởi đốt lên, soi quanh. Hành lý la liệt: quần áo của dì nàng, xoong chảo, nồi niêu, mấy cái chăn da bừa bãi, chưa cuốn gọn.
Trong góc, khẩu súng trường còn treo chỗ cũ.
Chắc họ đổi ý, muốn nán lại thêm một ngày nữa chăng?
Cửa hành lang mở toang, im lặng đầy đe dọa. Có cái gì đó đã thay đổi, Mary cảm mà không nhớ rõ. Nàng đứng im, cố trấn an và hồi tưởng lại.
Chỉ một phút sau, Mary hiểu ngay sự khác thường đó: không có tiếng tích tắc đều đặn của cái đồng hồ.
Mary bước ra hành lang, tay cầm đèn, tay kia khư khư khẩu súng. Đến cửa phòng khách, Mary thấy cái đồng hồ treo đối diện cửa phòng khách rơi xuống từ hồi nào, úp mặt xuống đất, mảnh kính đồng hồ vỡ văng tung tóe.
Và rồi, Mary suýt ngất đi.
Joss Merlyn, chính lão, mặt úp xuống giữa mảnh vỡ, hai tay giơ cao, một tay bám cái đồng hồ, hai chân duỗi thẳng. Nom Joss to lớn dị thường.
Trên nền nhà, vết máu loang lổ. Giữa hai vai chủ quán, quanh chỗ bị đâm cũng có vết máu đen và khô. Joss bị đâm lén sau lưng, trước khi ngã gục đã chồm đến, kéo theo cái đồng hồ.
Ông chết cứng rồi!
Mary đứng sững không biết là bao lâu. Tất cả oán ghét, thù hận trong lòng nàng tiêu tan.
Mắt nàng vẫn dán chặt vào xác chết bất động và những mảnh kính vỡ đẫm máu.
Ánh đèn chiếu yếu ớt trên vách, trên lầu vẫn tối om. Mary không thể nào bước thêm một bước. Không khí trong lữ quán hôm nay đã thật sự nhuộm mùi máu, lạnh lẽo rợn người. Nàng cố gắng để không thét lên hay chạy trốn.
Mary rùng mình, tưởng sắp ngã khụy, nàng cố gắng để không buông rơi đèn, cho bóng tối vây phủ quanh nàng. Hai chân như bị chôn chặt xuống đất. Gió lung linh ngọn nến trên tay.
Sau cùng, Mary nghĩ: Joss đã chết, đâu hại mình được mà sợ nữa.
Nhưng nàng vẫn chạy biến như ma đuổi sau lưng.
Mary chạy như điên, miệng ú ớ không ra lời. Richards đưa hai tay đón nàng. Mary nắm tay anh như tìm sự che chở, răng va nhau cầm cập, toàn thân run rẩy. Một lát sau, nàng hổn hển nói đứt quãng:
- Joss chết rồi! Chết... thật rồi. Tôi thấy ổng nằm dài dưới đất... Bị đâm sau lưng... Máu loang khắp... Có lẽ chết lâu rồi... Tối om trong đó... Không còn ai hết...
Người đàn ông tỉnh táo hơn:
- Còn dì cô đâu?
- Tôi không thấy dì tôi... Hãi quá, tôi e là...
Richards dịu dàng đỡ cô gái lên xe và ngồi cạnh nàng:
- Lỗi tại tôi, đã xiêu lòng để cô vô một mình. Bình tĩnh lại đi! Nào! Cô Mary !
Mary trấn tĩnh rất nhanh, cô bảo anh ta:
- Ngựa còn trong chuồng. Hành lý vẫn ngổn ngang.
- Lạ thật! Sao ông Bassat chưa đến?
Cả hai đều mong ông đến.
Richards thắc mắc:
- Ai giết lão kia? Trong vùng, ai cũng ghét lão, nhưng giết lão thì...
Sau đó, anh im lặng. Cả hai đều không dám lên tiếng trước, Richards vì tế nhị, còn Mary thì vì... sợ. Nhưng sau cùng nàng lên tiếng:
- Chắc dì tôi cũng chết rồi.
- Không đâu. Có thể bà trốn đi cầu cứu cũng nên.
- Không. Tôi biết dì tôi, bà không bao giờ tố cáo chồng. Trời ơi, nếu tôi đừng đi tố cáo ông ta, có lẽ dì tôi sống được.
Richards không biết dùng lời gì an ủi cô gái. Anh chỉ mong chủ đến. Trong lúc chờ đợi, anh khoác áo choàng vào cho Mary, âu yếm như đối với một em nhỏ.
Bỗng Mary kêu lên:
- Anh nghe kìa! Có vó ngựa.
Richards lắng tai và reo lên:
- Đúng rồi, chủ tôi đến.
Một phút sau, người kỵ mã đầu tiên hiện ra như một chấm đen trên con đường trắng, theo sau là nhiều người nữa. Tiếng động to dần.
Richards chạy bay về phía họ, la ầm ĩ, tay vẫy lia lịa.
Ông Bassat, người kỵ mã đầu tiên, kinh ngạc kêu lên:
- Richards! Làm gì đây?
- Thưa, Joss Merlyn chết rồi, lão bị ám sát. Bà sai tôi tới đây, cùng cô bé cháu vợ lão.
Vừa giữ ngựa cho chủ xuống, anh ta vừa kể lại câu chuyện.
Ông Bassat nói:
- Hắn chết không đáng tiếc. Ta chỉ tiếc không được chính tay ta còng hắn lại thôi. Nào, các anh vào trước, ta cần hỏi chuyện cô bé nầy.
Ông kinh ngạc khi biết Mary vượt ngần ấy đoạn đường đến báo tin cho ông, nhưng ông cũng nghiêm nghị trách nàng:
- Tại sao khi tôi đến, cô lại nói dối tôi? Bảo không biết gì cả? Tôi ngờ là cô đồng lõa với quân gian.
- Tôi vì dì tôi. Vả lại, lúc đó tôi cũng chưa biết gì nhiều bằng bây giờ.
Ông tòa nhìn cô gái từ đầu chí chân, giọng ông dịu xuống:
- Dù sao, cô rất đáng khen. Nhưng cô kiệt sức rồi, hãy ngồi trên xe mà nghỉ chân.
Rồi ông gọi Richards lại dìu Mary lên xe.
Sân chìm trong bóng tối giờ sáng rực. Tiếng ngựa hí, tiếng người nói chuyện vang lên. Trong một chốc, các cửa nẻo mở toang. Rồi có tiếng người nói to:
- Còn một xác chết trên lầu nữa!
Mary tái mét, nhắm nghiền mắt.
Giọng ông Bassat vọng lên bên tai:
- Có tin buồn cho cô, Mary! Nhưng tôi tin là dì cô không phải đau đớn. Bà chết liền tại cửa phòng, bà cũng bị đâm như Joss. Tôi xin chia buồn cùng cô.
Mary mở bừng mắt. Ông Bassat đứng cạnh nàng, buồn rầu nhắc đi, nhắc lại rằng dì nàng chết ngay không phải đau đớn.
Mary ngồi im, nàng cầu nguyện cho dì tìm được sự giải thoát bình yên, nàng xin dì tha thứ cho nàng, cho hành động nàng, hiểu lòng nàng. Nàng mong mẹ nàng đón lấy dì. Những ý nghĩ ấy an ủi Mary chút đỉnh, vì cô gái vẫn cho là dì nàng chết vì mình.
Rồi nàng nhớ lời Jean: "Tôi chưa hề giết người" và lời bà thầy bói: "Tay anh sắp đẫm máu. Anh sẽ giết người". Những điều nầy, tuy rời rạc nhưng đều như tố cáo Jean, có thể lắm, vốn ghét anh sẵn, Jean dám phạm tội sát nhân. Tởm quá! Trời ơi! Giá nàng đừng đi! Nàng sẽ chết luôn. Nàng chả hối tiếc gì. Tởm quá! Người nàng yêu...
Hừ! Bây giờ nàng chỉ cần khẽ nói với ông Bassat:
"Tôi biết kẻ giết người!" và đưa ông cùng đoàn tùy tùng đến nhà Jean... Dễ quá, nhưng tại sao nàng do dự?
Bỗng có tiếng vó ngựa thật gấp rồi đều đặn, hòa hưỡn trước quán. Cũng như mọi người, Mary hồi hộp, chờ đợi.
Ông Bassat bước ra khi người kỵ sĩ ngừng lại:
- Nhân danh đức vua, tôi hỏi anh làm gì trong đêm tối trên con đường nầy?
Người kia kéo cương ngựa, bước vào. Khi ông cúi xuống, Mary thấy mớ tóc trắng toát quen thuộc và giọng ông dịu dàng, chậm rãi như thường lệ:
- Ông là ông Bassat ở North Hill? Mary Hellan đến cầu cứu với tôi, nhưng tôi đến quá trễ. Tôi là cha phó xứ Altarnun.
Mary ngồi lặng trong phòng ăn nhà cha xứ. Mọi người quá tốt với nàng, nhất là ông Bassat, ông vỗ về nàng như dỗ đứa trẻ con:
- Cô hãy quên mọi sự. Không bao lâu kẻ giết dì cô sẽ đền tội. Và khi nào cô khuây khỏa, muốn đi đâu, làm gì, tôi sẽ giúp cô được như ý. Cô đã làm hết sức cô, không có gì đáng trách.
Mary không nghe gì, không thấy gì mà cùng không thiết gì. Cô không tự quyết định gì.
Khi cha Davey đề nghị đích thân đưa nàng về nhà ông, thì ai cũng hài lòng.
Nếu Mary là đàn ông, mọi sự chắc khác hẳn. Người ta buộc cô đến Bodmin hay Launceston để ra tòa. Nàng sẽ lo lấy chỗ ở nơi ăn và khi xong mọi thủ tục cần thiết, cô sẽ cút xéo đi đâu tùy ý, không ai quan tâm đến.
Nhưng tối qua, người ta vội vã đưa cô ra khỏi lữ quán, nơi xảy ra án mạng. Lại đối xử hết sức tử tế, dịu dàng. Và mọi người cho là cô đến nhà cha phó thật đúng thật phải, không có cách nào hơn.
Một giờ đêm, cha phó đưa Mary về đến nhà. Cha gọi bà giúp việc dậy, dọn giường cho cô gái. Bà đốt lửa, trải giường, hơ ấm áo ngủ cho Mary. Nàng sắp thiếp ngủ thì một giọng êm ái và cương quyết nâng đầu nâng lên:
- Hãy uống cái nầy, Mary!
Cha Francis đứng trên đầu giường, tay bưng ly nước, nhìn nàng bằng đôi mắt thủy tinh, không biểu lộ gì hết, ra lệnh.
Mary lặng lẽ vâng lời. Nhờ chất thuốc an thần trong ly, Mary ngủ một giấc liền 14 tiếng đồng hồ.
Khi nàng tỉnh dậy, cha Francis vắng mặt. Mary lại nghĩ đến tội ác Jean, lại đau đớn vì cái chết của dì. Nàng đi ra, đi vào nóng nảy, nôn nao, chỉ mong cha phó trở về. Nàng sẽ kể hết, kể hết. Jean sẽ bị treo cổ đền tội như anh. Nàng sẽ trở về Helford, nhưng lòng tan nát, can đảm tiêu tan.
Mary biết mình không thể yêu ai khác nữa, ngoài Jean.
Định mệnh tàn khốc quá!
Nàng nói mau:
- Tôi cần gặp ông Bassat có việc gấp. Việc quan trọng nên tôi mới làm phiền vào giờ nầy.
- Chủ tôi đi Launceston sáng nay có chuyện gấp, chưa về.
- Trời ơi! Nếu tôi không gặp ông ấy thì tên sát nhân sẽ trốn mất. Tôi cầu cứu ai bây giờ? Bác có thể giúp tôi chăng? Van bác.
- Có bà ở nhà. Tôi đưa cô vô gặp bà nghe? Đừng sợ chó, không sao.
Mary đi theo người đàn ông như đi trong mơ. Nàng bất lực, gặp rủi, không hoàn thành ý định được.
Phòng đọc sách của bà Bassat ấm cúng và rộng rãi. Nàng nhận ra người thiếu phụ mua ngựa đang đọc sách cho hai con nghe. Bà ngồi trong ghế bành trước lò sưởi.
Kinh ngạc nhìn Mary, bà không thốt một lời nào.
Gã đàn ông nhanh nhẩu:
- Cô nầy có tin quan trọng báo ông. Tôi đưa cô vào gặp bà.
Mary bình tĩnh lại:
- Tôi xin được nói chuyện riêng với bà.
Bà Bassat quay sang hai con nói nhỏ vài câu và đưa mắt cho tên người nhà. Cả ba cùng lui ra. Giọng bà nhẹ nhàng:
- Nào! Tôi có thể giúp chi cô? Nom cô xanh và mệt quá. Cô hãy ngồi kia.
- Xin bà cho biết ông về lúc nào?
- Tôi cũng chả biết được điều nầy. Tôi đang lo đây. Nếu tên sát nhân chống cự, tôi e nhà tôi bị thương dù là có lính theo.
- Thưa bà, bà nói thế nghĩa là sao? Mary hốt hoảng hỏi dồn.
- Nhà tôi đến lữ quán Giao Mai. Cô là người lạ, cô không biết chuyện nầy. Tên Joss Merlyn phạm nhiều tội ác, nhưng đến nay mới có bằng cớ rõ ràng. Nhà tôi đã theo dõi hắn từ lâu. Nhà tôi đến Launceston xin thêm lính...
Bỗng, bà tái mặt, lùi lại, kêu lên giọng thất thanh:
- Hình như... Thôi, phải rồi; nhà tôi có nói đến một người con gái, cháu của Joss. Người đó có phải là cô không? Cô muốn gì?
Khuôn mặt Mary trắng bệch cũng như bà chủ nhà:
- Xin bà yên tâm! Quả thật tôi là cháu vợ của Joss, nhưng tôi cũng ghét và sợ ông ta như mọi người. Tôi đến đây để báo tin cho ông Bassat biết Joss định trốn đi chiều nay. Tôi có bằng cớ buộc tội ông ấy... Nhưng tôi thật vô dụng.
Mary ngồi xuống, chán nản, thờ thẫn. Nàng e rằng Joss khám phá ra sự vắng mặt của nàng và sẽ trốn đi trước giờ dự định. Thế là hỏng. Đáng ra, nàng cứ ở yên. Hai tay bưng mặt, Mary nói gần như không ra tiếng:
- Tôi đã làm một việc điên rồ.
Bà Bassat đến gần cô gái, đặt tay lên vai nàng:
- Cô có vẻ lương thiện và thành thực. Xin lỗi, thoạt đầu tôi đã ngờ oan cô. Cô can đảm lắm. Đêm hôm thế nầy mà cô chịu khó đến đây. Nếu là tôi chắc tôi điên lên vì sợ. Tôi sẵn sàng giúp cô, nhưng cô cần gì đây?
- Thưa bà! Chắc ông nhà sẽ nổi giận vì tôi ngu dại bỏ đi đến đây làm cho chủ quán đoán biết, trốn đi sớm hơn, hỏng việc của ông.
- Không sao, cô đừng lo, tôi sẽ nói giúp cô.
- Thưa bà, làm sao ông biết được việc nầy bất ngờ như vậy?
- Tôi không rõ lắm. Sáng nay có người đến tìm nhà tôi, ông chỉ nói sơ qua với tôi. Thôi, cô đừng bận tâm, quên nó đi. Cô đói lắm phải không?
Bà đến giật chuông. Người đàn ông ban nãy thò mặt vào và bà chủ dặn anh ta dọn bữa cho Mary.
Cô cố ngồi ăn, nhưng đầu óc quay cuồng. Bà Bassat muốn nàng quên nỗi lo lắng, không ngớt nói chuyện. Bà không ngờ điều đó càng làm cô gái bứt rứt thêm.
Khi đồng hồ gõ 8 tiếng, Mary không kiên nhẫn nữa. Ngồi yên lúc nầy với nàng còn khổ hơn bị rượt đuổi, nàng nhớ đến nguy hiểm đang chờ dì ở Giao Mai. Mary đứng lên:
- Thưa bà, tôi cảm ơn lòng tốt của bà, nhưng tôi không thể ngồi đợi được. Tôi lo cho dì tôi quá. Tôi muốn trở lại lữ quán.
- Tôi cũng hiểu vậy. Tôi muốn giúp cô quên chuyện nầy trong giây lát. Tôi cũng lo cho nhà tôi quá. Cô trở lại đó một mình sao được?
Bà nhìn Mary vẻ thương cảm rồi lại nói:
- Hay là tôi bảo Richards đánh xe đưa cô đi? Anh ta khôn lắm. Nếu đến chân đồi mà thấy trên đó đang đánh nhau thì đừng lên, phải chờ cho yên đã. Tôi cũng muốn đi với cô, nhưng sức khoẻ tôi kém lắm.
- Vâng! Cảm ơn bà. Tôi đi được, thế thì tốt quá. Tôi không sợ gì cả. Nếu một mình, tôi cũng phải đi.
Bà chủ rung chuông gọi gia nhân:
- Bảo Richards đem xe ra, nhanh lên!
Đoạn, bà lấy cho cô gái một cái áo choàng dầy cộm và cái chăn. Bà không ngớt nói lấy làm tiếc không cùng đi với Mary được. Trái lại, cô gái rất mừng khi thấy bà không đi. Nàng sợ có bà, cuộc hành trình sẽ bị chậm trễ.
Richards, tên gia nhân, từng đến lữ quán một lần trước đây, ban đầu nom có vẻ bực bội, nhưng khi nghe rõ nhiệm vụ, lấy làm hài lòng. Với hai khẩu súng lục kèm hai bên hông, anh ta được lệnh bắn vào kẻ nào cản trở hay đe dọa hai người. Nom anh ta có vẻ oai vệ hơn bao giờ.
Mary leo ngồi cạnh anh. Bầy chó sủa vang lên như từ biệt họ. Mary bằng lòng và tỉnh táo trở lại.
Song khi xe ra khỏi cổng, căn nhà khuất dạng nàng mới cảm thấy nàng đã liều lĩnh mà trở lại Giao Mai. Nàng đi vắng 5 giờ liền, có trời mới biết chuyện gì đã xảy ra ở lữ quán trong lúc nàng vắng mặt. Tuy nhiên, cô không hối về quyết định nầy, cô cũng không tính toán gì cả, sẽ tùy cơ ứng biến.
Trăng lên cao, gió tạt vào mặt lạnh buốt. Biết rằng mình lao vào hiểm nguy, Mary vẫn dễ chịu hơn ngồi trong căn nhà ấm cúng chịu chuyện bà Bassat. Richards có mang vũ khí, nàng cũng biết sử dụng khi cần. Mỗi khi anh ta gợi chuyện, nàng chỉ trả lời vắn tắt. Tâm trí nàng đang gởi ở Giao Mai, nơi dì nàng đang lâm nguy.
Suốt cuộc hành trình, vó ngựa vang đều đặn. Trăng chiếu sáng khiến con đường ngoằn ngoèo như một dải băng trắng trong đêm, hai bên đồng hoang vắng lặng.
Rồi quanh họ càng hoang vu, trống trải khi xe lên dốc. Gió lạnh như cắt, mang theo mùi sình lầy và cỏ dại trong gió. Không một dấu vết gì chứng tỏ có xe hay người, trừ xe chở Mary và Richards. Có tiếng cú rúc đâu đó vàng tăng vẻ rùng rợn, bí mật. Richards cất tiếng xé tan yên lặng:
- Chúng ta sẽ gặp họ tại lữ quán. Cô sẽ thấy chủ quán bị trói chặt hai tay đang nguyền rủa chủ tôi. Thế nào dân chúng quanh đây cũng mở đại tiệc ăn mừng. Được tự tay trói Joss chắc chủ tôi thích lắm.
- Nhưng nếu lão thoát được thì sao? Lão thạo đồng hoang như lão biết bàn tay có mấy ngón. Tôi lo quá.
- Chủ tôi cũng sinh trưởng tại đây. Nếu có một cuộc săn đuổi trên đồng, tôi cá là chủ tôi sẽ thắng. Gần 50 năm, ông săn bắn trong vùng, một con chồn cũng khó thoát khi ông muốn bắt. Nhưng cô đừng lo, tôi tin là con mồi sẽ bị thộp tại hang. Ông trời có mắt.
Mary im lặng nghe Richards nói, tiếng nói anh ta không làm nàng chán và mệt như những mẩu chuyện của bà Bassat. Cái lưng rộng và khuôn mặt lương thiện của anh giúp nàng vững dạ.
Xe đang ở dưới chân dốc dẫn đến lữ quán Giao Mai. Trên đỉnh đồi, các ống khói đen xuất hiện. Richards đưa tay sờ vào súng và tằng hắng. Tim Mary đập loạn trong ngực, cô nắm chắc thành xe.
Richards bảo:
- Cô ngồi yên đây, để tôi lên xem họ đến chưa?
- Không được. Anh không biết bằng tôi. Anh theo sau tôi hay đợi, có gì tôi sẽ kêu anh. Im lặng kiểu nầy, tôi e là ông Bassat chưa dẫn lính đến và chủ quán trốn rồi. Nếu không, lão còn trong nhà. Cho tôi mượn khẩu súng. Tôi không sợ gì đâu.
- Nếu cô chạm mặt lão và tôi không nghe được tiếng cô kêu thì sao?... Richards hỏi... Lạ quá, đáng ra phải có tiếng reo hò, tiếng súng nổ mới phải. Ta nên chờ.
- Tôi sốt ruột quá rồi. Muốn điên lên. Thà chạm mặt với kẻ ác, hơn là chờ đợi. Tội nghiệp dì tôi, bà vô tội, anh Richards ạ!
Ngừng lại thở, rồi Mary tiếp:
- Anh hãy tin tôi. Tôi quen với hiểm nguy rồi. Có gì tôi sẽ bắn lên một phát cho anh hay. Tôi không chui đầu vào bẫy. Không nên vô một lượt cả hai. Nàng cầm lấy khẩu súng trong khi Richards còn do dự.
Mary hy vọng là Joss đã trốn rồi, như vậy câu chuyện chấm dứt êm thắm. Vùng nầy sẽ tránh được sự phiền nhiễu do lão gây ra. Lão sẽ làm lại cuộc đời hay say sưa cho tới chết. Lúc nầy, Mary không mong lão bị bắt nữa. Trả thù làm gì cơ chứ. Nàng đã tỏ ra mạnh dạn trước Richards nhưng bây giờ nàng cũng lo phải chạm mặt Joss. Mary cảm thấy lạnh xương sống khi nghĩ đến lão hiện ra, mắt đỏ ngầu.
Ngừng lại trước sân, Mary nhìn nhớn nhác xung quanh và khi thấy ngay sau nàng có Richards và cỗ xe, nàng vững lòng bước tới.
Sân trống rỗng, chuồng ngựa đóng kín. Lữ quán im lìm, tối om như cách đây 7 tiếng đồng hồ, khi nàng ra đi. Không có vết bánh xe cũng như dấu vết hành lý. Cửa sổ phòng nàng vẫn y nguyên.
Mary đợi một lúc. Có tiếng ngựa hí và dậm chân trong chuồng. A! Ra họ chưa đi?
Tim Mary như thắt lại, nàng không biết nên quay lui với Richards đợi lính và ông Bassat đến, hay cứ vào? Lạ quá! Nếu định đi, lão đã đi rồi mới phải chớ. Tình cảnh trở nên lạ lùng, khó hiểu.
Mary núp ở cổng, nghe ngóng, rồi đánh bạo vặn quả nắm.
Cửa khóa chặt.
Nàng vòng ngã sau, ngang quầy rượu, rồi đến bếp. Đứng bên cửa sổ, Mary dán mắt vào nhưng không một tia sáng chiếu ra. Bếp tối om như đáy giếng sâu. Thử vặn qua nắm, Mary kinh ngạc thấy cửa không khóa.
Mary rợn người, toan lùi lại.
Nếu Joss ngồi trên ghế, hườm sẳn súng chờ nàng?
Ừ! Nàng có súng đấy, song quả tình, Mary không tin tưởng tài sử dụng súng của mình.
Nhưng Mary không lùi được nữa, thà chạm mặt cái chết hơn là bị dí súng sau lưng.
Mary chậm rãi thận trọng thò đầu vào.
Không một tiếng động. Tro tàn gần hết trong lò sưởi. Mary đoán là không có ai trong bếp từ nhiều giờ qua nên mạnh dạn đẩy cửa bước vô.
Mắt quen dần với bóng tối, Mary nhận rõ hình dạng mọi vật bên trong. Trên bàn có mẩu nến, nàng dí vào lò sưởi đốt lên, soi quanh. Hành lý la liệt: quần áo của dì nàng, xoong chảo, nồi niêu, mấy cái chăn da bừa bãi, chưa cuốn gọn.
Trong góc, khẩu súng trường còn treo chỗ cũ.
Chắc họ đổi ý, muốn nán lại thêm một ngày nữa chăng?
Cửa hành lang mở toang, im lặng đầy đe dọa. Có cái gì đó đã thay đổi, Mary cảm mà không nhớ rõ. Nàng đứng im, cố trấn an và hồi tưởng lại.
Chỉ một phút sau, Mary hiểu ngay sự khác thường đó: không có tiếng tích tắc đều đặn của cái đồng hồ.
Mary bước ra hành lang, tay cầm đèn, tay kia khư khư khẩu súng. Đến cửa phòng khách, Mary thấy cái đồng hồ treo đối diện cửa phòng khách rơi xuống từ hồi nào, úp mặt xuống đất, mảnh kính đồng hồ vỡ văng tung tóe.
Và rồi, Mary suýt ngất đi.
Joss Merlyn, chính lão, mặt úp xuống giữa mảnh vỡ, hai tay giơ cao, một tay bám cái đồng hồ, hai chân duỗi thẳng. Nom Joss to lớn dị thường.
Trên nền nhà, vết máu loang lổ. Giữa hai vai chủ quán, quanh chỗ bị đâm cũng có vết máu đen và khô. Joss bị đâm lén sau lưng, trước khi ngã gục đã chồm đến, kéo theo cái đồng hồ.
Ông chết cứng rồi!
Mary đứng sững không biết là bao lâu. Tất cả oán ghét, thù hận trong lòng nàng tiêu tan.
Mắt nàng vẫn dán chặt vào xác chết bất động và những mảnh kính vỡ đẫm máu.
Ánh đèn chiếu yếu ớt trên vách, trên lầu vẫn tối om. Mary không thể nào bước thêm một bước. Không khí trong lữ quán hôm nay đã thật sự nhuộm mùi máu, lạnh lẽo rợn người. Nàng cố gắng để không thét lên hay chạy trốn.
Mary rùng mình, tưởng sắp ngã khụy, nàng cố gắng để không buông rơi đèn, cho bóng tối vây phủ quanh nàng. Hai chân như bị chôn chặt xuống đất. Gió lung linh ngọn nến trên tay.
Sau cùng, Mary nghĩ: Joss đã chết, đâu hại mình được mà sợ nữa.
Nhưng nàng vẫn chạy biến như ma đuổi sau lưng.
Mary chạy như điên, miệng ú ớ không ra lời. Richards đưa hai tay đón nàng. Mary nắm tay anh như tìm sự che chở, răng va nhau cầm cập, toàn thân run rẩy. Một lát sau, nàng hổn hển nói đứt quãng:
- Joss chết rồi! Chết... thật rồi. Tôi thấy ổng nằm dài dưới đất... Bị đâm sau lưng... Máu loang khắp... Có lẽ chết lâu rồi... Tối om trong đó... Không còn ai hết...
Người đàn ông tỉnh táo hơn:
- Còn dì cô đâu?
- Tôi không thấy dì tôi... Hãi quá, tôi e là...
Richards dịu dàng đỡ cô gái lên xe và ngồi cạnh nàng:
- Lỗi tại tôi, đã xiêu lòng để cô vô một mình. Bình tĩnh lại đi! Nào! Cô Mary !
Mary trấn tĩnh rất nhanh, cô bảo anh ta:
- Ngựa còn trong chuồng. Hành lý vẫn ngổn ngang.
- Lạ thật! Sao ông Bassat chưa đến?
Cả hai đều mong ông đến.
Richards thắc mắc:
- Ai giết lão kia? Trong vùng, ai cũng ghét lão, nhưng giết lão thì...
Sau đó, anh im lặng. Cả hai đều không dám lên tiếng trước, Richards vì tế nhị, còn Mary thì vì... sợ. Nhưng sau cùng nàng lên tiếng:
- Chắc dì tôi cũng chết rồi.
- Không đâu. Có thể bà trốn đi cầu cứu cũng nên.
- Không. Tôi biết dì tôi, bà không bao giờ tố cáo chồng. Trời ơi, nếu tôi đừng đi tố cáo ông ta, có lẽ dì tôi sống được.
Richards không biết dùng lời gì an ủi cô gái. Anh chỉ mong chủ đến. Trong lúc chờ đợi, anh khoác áo choàng vào cho Mary, âu yếm như đối với một em nhỏ.
Bỗng Mary kêu lên:
- Anh nghe kìa! Có vó ngựa.
Richards lắng tai và reo lên:
- Đúng rồi, chủ tôi đến.
Một phút sau, người kỵ mã đầu tiên hiện ra như một chấm đen trên con đường trắng, theo sau là nhiều người nữa. Tiếng động to dần.
Richards chạy bay về phía họ, la ầm ĩ, tay vẫy lia lịa.
Ông Bassat, người kỵ mã đầu tiên, kinh ngạc kêu lên:
- Richards! Làm gì đây?
- Thưa, Joss Merlyn chết rồi, lão bị ám sát. Bà sai tôi tới đây, cùng cô bé cháu vợ lão.
Vừa giữ ngựa cho chủ xuống, anh ta vừa kể lại câu chuyện.
Ông Bassat nói:
- Hắn chết không đáng tiếc. Ta chỉ tiếc không được chính tay ta còng hắn lại thôi. Nào, các anh vào trước, ta cần hỏi chuyện cô bé nầy.
Ông kinh ngạc khi biết Mary vượt ngần ấy đoạn đường đến báo tin cho ông, nhưng ông cũng nghiêm nghị trách nàng:
- Tại sao khi tôi đến, cô lại nói dối tôi? Bảo không biết gì cả? Tôi ngờ là cô đồng lõa với quân gian.
- Tôi vì dì tôi. Vả lại, lúc đó tôi cũng chưa biết gì nhiều bằng bây giờ.
Ông tòa nhìn cô gái từ đầu chí chân, giọng ông dịu xuống:
- Dù sao, cô rất đáng khen. Nhưng cô kiệt sức rồi, hãy ngồi trên xe mà nghỉ chân.
Rồi ông gọi Richards lại dìu Mary lên xe.
Sân chìm trong bóng tối giờ sáng rực. Tiếng ngựa hí, tiếng người nói chuyện vang lên. Trong một chốc, các cửa nẻo mở toang. Rồi có tiếng người nói to:
- Còn một xác chết trên lầu nữa!
Mary tái mét, nhắm nghiền mắt.
Giọng ông Bassat vọng lên bên tai:
- Có tin buồn cho cô, Mary! Nhưng tôi tin là dì cô không phải đau đớn. Bà chết liền tại cửa phòng, bà cũng bị đâm như Joss. Tôi xin chia buồn cùng cô.
Mary mở bừng mắt. Ông Bassat đứng cạnh nàng, buồn rầu nhắc đi, nhắc lại rằng dì nàng chết ngay không phải đau đớn.
Mary ngồi im, nàng cầu nguyện cho dì tìm được sự giải thoát bình yên, nàng xin dì tha thứ cho nàng, cho hành động nàng, hiểu lòng nàng. Nàng mong mẹ nàng đón lấy dì. Những ý nghĩ ấy an ủi Mary chút đỉnh, vì cô gái vẫn cho là dì nàng chết vì mình.
Rồi nàng nhớ lời Jean: "Tôi chưa hề giết người" và lời bà thầy bói: "Tay anh sắp đẫm máu. Anh sẽ giết người". Những điều nầy, tuy rời rạc nhưng đều như tố cáo Jean, có thể lắm, vốn ghét anh sẵn, Jean dám phạm tội sát nhân. Tởm quá! Trời ơi! Giá nàng đừng đi! Nàng sẽ chết luôn. Nàng chả hối tiếc gì. Tởm quá! Người nàng yêu...
Hừ! Bây giờ nàng chỉ cần khẽ nói với ông Bassat:
"Tôi biết kẻ giết người!" và đưa ông cùng đoàn tùy tùng đến nhà Jean... Dễ quá, nhưng tại sao nàng do dự?
Bỗng có tiếng vó ngựa thật gấp rồi đều đặn, hòa hưỡn trước quán. Cũng như mọi người, Mary hồi hộp, chờ đợi.
Ông Bassat bước ra khi người kỵ sĩ ngừng lại:
- Nhân danh đức vua, tôi hỏi anh làm gì trong đêm tối trên con đường nầy?
Người kia kéo cương ngựa, bước vào. Khi ông cúi xuống, Mary thấy mớ tóc trắng toát quen thuộc và giọng ông dịu dàng, chậm rãi như thường lệ:
- Ông là ông Bassat ở North Hill? Mary Hellan đến cầu cứu với tôi, nhưng tôi đến quá trễ. Tôi là cha phó xứ Altarnun.
Mary ngồi lặng trong phòng ăn nhà cha xứ. Mọi người quá tốt với nàng, nhất là ông Bassat, ông vỗ về nàng như dỗ đứa trẻ con:
- Cô hãy quên mọi sự. Không bao lâu kẻ giết dì cô sẽ đền tội. Và khi nào cô khuây khỏa, muốn đi đâu, làm gì, tôi sẽ giúp cô được như ý. Cô đã làm hết sức cô, không có gì đáng trách.
Mary không nghe gì, không thấy gì mà cùng không thiết gì. Cô không tự quyết định gì.
Khi cha Davey đề nghị đích thân đưa nàng về nhà ông, thì ai cũng hài lòng.
Nếu Mary là đàn ông, mọi sự chắc khác hẳn. Người ta buộc cô đến Bodmin hay Launceston để ra tòa. Nàng sẽ lo lấy chỗ ở nơi ăn và khi xong mọi thủ tục cần thiết, cô sẽ cút xéo đi đâu tùy ý, không ai quan tâm đến.
Nhưng tối qua, người ta vội vã đưa cô ra khỏi lữ quán, nơi xảy ra án mạng. Lại đối xử hết sức tử tế, dịu dàng. Và mọi người cho là cô đến nhà cha phó thật đúng thật phải, không có cách nào hơn.
Một giờ đêm, cha phó đưa Mary về đến nhà. Cha gọi bà giúp việc dậy, dọn giường cho cô gái. Bà đốt lửa, trải giường, hơ ấm áo ngủ cho Mary. Nàng sắp thiếp ngủ thì một giọng êm ái và cương quyết nâng đầu nâng lên:
- Hãy uống cái nầy, Mary!
Cha Francis đứng trên đầu giường, tay bưng ly nước, nhìn nàng bằng đôi mắt thủy tinh, không biểu lộ gì hết, ra lệnh.
Mary lặng lẽ vâng lời. Nhờ chất thuốc an thần trong ly, Mary ngủ một giấc liền 14 tiếng đồng hồ.
Khi nàng tỉnh dậy, cha Francis vắng mặt. Mary lại nghĩ đến tội ác Jean, lại đau đớn vì cái chết của dì. Nàng đi ra, đi vào nóng nảy, nôn nao, chỉ mong cha phó trở về. Nàng sẽ kể hết, kể hết. Jean sẽ bị treo cổ đền tội như anh. Nàng sẽ trở về Helford, nhưng lòng tan nát, can đảm tiêu tan.
Mary biết mình không thể yêu ai khác nữa, ngoài Jean.
Định mệnh tàn khốc quá!
Hết chương 10